Saturday, 10 May 2014

Mặt nạ kịch Noh - Những giấc mơ vĩnh hằng



Yugen và Noh

Như linh hồn và thể xác: không có yugen, Noh không có linh hồn và chỉ với Noh, yugen mới thể hiện vẹn toàn ý nghĩa tinh túy nhất.

Yugen (幽玄) là một khái niệm mỹ học được các nhà thơ waka và tác gia kịch No đề xướng từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 15. Yugen mang một ý nghĩa rộng chỉ bầu không khí mang tính thần bí, u ám, thâm sâu, ưu mỹ, tính nước đôi, tĩnh lặng, biến chuyển và buồn thương. Theo bản nguyên, khái niệm này ở Trung Quốc để miêu tả những điều thâm sâu mà con người không thể thấy và lý giải được. Từ này cũng được sử dụng nhiều trong Phật Giáo, biểu thị chân lý tối hậu không thể nắm bắt bằng tri tính (theo: Những khái niệm then chốt của mãy học Nhật Bản)


Yugen có nghĩa là u huyền: sự huyền bí có tính chất u tịch. "U huyền vốn là một từ Hán Nhật dùng để chỉ những cảnh giới sâu xa, vi diệu và thần bí mà con người không dễ dàng nắm bắt được, tuy nhiên trong thời kỳ trung đại, đây lại là từ để chỉ một trạng thái lý tưởng mà ở đó vẻ đẹp tao nhã đóng vai trò chủ đạo khiến nảy sinh những cảm xúc hay tâm trạng sâu xa nằm ngoài ngôn ngữ" (Mitsuyoshi Numano: Văn học Nhật Bản - một số đặc trưng nổi bật). Chính tinh thần Yugen đã làm cho Noh "vi diệu và thần bí" để đạt tới độ "vẻ đẹp tao nhã đóng vai trò chủ đạo" này.

Uto, Tranh vẽ kịch  Noh , Tsuskioka Kogyo (1869-1927). nguồn: like walk- hrough yugen
"Mục đích của Noh không phải là việc kể một câu chuyện hay giảng dạy đạo đức, (Noh) đơn giản chỉ là sự biểu hiện của vẻ đẹp"(1). Không có loại kịch nghệ nào duy mỹ và vị cái đẹp đến vô cùng tận như Noh.

Do tương đồng với quan niệm của thiền nên kịch Noh không quá lộng lẫy, phô trương, cũng không quá dân dã mà giản dị, sâu lắng và mang đậm tính u huyền, bao gồm 3 nguyên tắc là Myoka (vẻ đẹp mỹ miều như một bông hoa), Hie (vẻ đẹp cô quạnh, lạnh lẽo) và Mumon (vẻ đẹp nội tâm mà không cần cất thành lời). (theo:Xuan Phong)

Mỗi vở kịch Noh là một câu chuyện kể về những nhân vật ban đầu còn vướng mắc, hệ lụy, linh hồn không siêu thoát… sau thức tỉnh. Noh không dựa vào thần thoại dù vẫn có bóng dáng thần linh, ma quỷ. Noh thích kể về cuộc đời của những con người tài sắc, những anh hùng… để qua đó thể hiện cái đẹp – cái đẹp linh thiêng của đời sống, chứ Noh không diễn tả những cảm thức có kịch tính cao độ . Noh hướng đến sự cô đọng, tập trung để đạt đến cái đẹp của thơ ca, tập trung vào cái đẹp tinh tế, vào chiều sâu của Thiền. Do vậy một vở kịch Noh bao giờ cũng mang đậm tính Thiền vị, mang tính khai ngộ, mở ra tri kiến. Noh luôn mở ra cho khán giả của mình những cái Kiến (thấy) từ những cái Ảo (không gian ảo, thời gian ảo). (Theo:nguyenhuutinh)

Yugen và mặt nạ kịch Noh

Tính u huyền thể hiện trên mặt nạ kịch Noh một cách đậm đặc và thuần khiết, những xúc cảm thông thường như "hỷ, nộ, ái, ố" không bao giờ và không được phép hiện diện trên mặt nạ. Mặt nạ kịch Noh mang vẻ huyền bí, liêu trai và dường như thuộc về một cảnh giới khác cảnh giới của phàm trần.

Nghệ sĩ kịch Noh đeo mặt nạ Okina. Nguồn: Theatre of yugen
Trước khi được sử dụng phổ biến vào thời Muromachi (1392-1573), mặt nạ kịch Noh có tính chất thần bí và mang ý nghĩa tôn giáo. Sau này ý nghĩa tôn giáo của mặt nạ bắt đầu suy yếu và nó mang nhiều đặc tính người hơn. Để Noh đạt được khía cạnh u huyền mạnh mẽ, người nghệ sỹ kịch Noh cho rằng khuôn mặt với những đặc trưng riêng cùng xúc cảm cá nhân của mình phải được giấu đi để không làm phân tâm khán giả, đây chính là nguyên nhân làm cho mặt nạ kịch Noh luôn hướng tới sự huyền bí tối thượng như cách chúng ta đang thấy trong quá khứ và hiện tại.

Một vài mặt nạ kịch Noh trong bộ sưu tập 47 cái của gia đình Konparu Soke. Những mặt nạ này được chế tác từ thời Muromachi còn lại tới bây giờ. Nguồn: www.emuseum.jp
Khi nói tới tính u huyền của mặt nạ kịch Noh, hãy liên tưởng tới vẻ u tịch của một ngọn núi. Cũng cùng một ngọn núi nhưng vẻ đẹp sẽ được cảm nhận khác nhau tùy lúc, tùy thời và đặc biệt là sự ngắn ngủi, phù du nhưng đắt giá của cái đẹp trong từng thời khắc thoáng qua đó. Người xem Noh phải đọc được sự tinh tế của chuyển động và hiệu ứng ánh sáng lướt qua trên từng cái mặt nạ được thể hiện bởi những nghệ sĩ bậc thầy.

Những biểu hiện cảm xúc theo góc chuyển động của mặt nạ Ko-omote. Về nguyên tắc, mặt ngước lên thể hiện tâm trạng vui và mặt cúi xuống thể hiện tâm trạng buồn. Nguồn:ko-omote  (xem thêm: www.plosone.org và www.ncbi.nlm.nih.gov)
Một trong những điều làm cho mặt nạ kich Noh mê hoặc là bởi vẻ đẹp trung tính (chukan hyoyo) của nó: một sự biểu hiện mơ hồ xúc cảm không hẳn vui cũng chẳng hẳn buồn. Tính chất ngờ ngợ và đa diện này là yếu tố cốt lõi của một mặt nạ, người nghệ sĩ giỏi phải dùng những cử động vi tế để làm cho mặt nạ thể hiện cám xúc vui hay buồn.

Mỗi cái mặt nạ Noh là một bản sao hoàn hảo của mặt nạ chuẩn, người ta không chấp nhận bất kỳ một khác biệt hay "sáng tạo" nào khi làm mặt nạ kịch Noh. Giống hệt là tiêu chí hàng đầu, bản thân yếu tố phi thời gian này lại phủ lên mặt nạ Noh một trầm tích lịch sử, chất chứa sức nặng của những huyền tích âm u.

Những mặt nạ làm cho vở kịch Noh diễn ra như một giấc mơ với những biểu tượng đầy ảo giác. Người xem được sống với các câu chuyện về tình yêu, về lòng căm hờn, nỗi buồn, niềm hối tiếc, trong sự cường điệu dưới bầu không khí u mặc. Cảm xúc bị dồn nén nhưng cách thể hiện lại rất châm rãi và tỉ mẩn, cứ như thể ta đang nhìn thế giới của câu chuyện qua một bức vách không-thời gian huyễn hoặc.

Mặt nạ kịch Noh - phân loại

Mặt nạ kịch Noh được gọi là omote (dịch nghĩa, "khuôn mặt") là đạo cụ rất quan trọng để Noh được liệt vào dạng kịch mặt nạ. Các tài liệu còn sót lại từ thời kỳ Momoyama chỉ ra khoảng 60 kiểu mặt nạ cho khoảng hơn 200 nhân vật trong chừng 250 vở kịch được liệt kê, chúng là mẫu mực cho tất cả các kiểu mặt nạ được sử dụng ngày nay. Nhiều phân loại liệt kê mặt nạ theo các tuyến nhận vật trong một vở kịch, phổ biến nhất là phân thành 5 loại: thần, nam, nữ, cuồng (kỳ lạ) và quỷ. Theo www.the-noh.com sự phân loại như sau:

Loại mặt nạ này chỉ được sử dụng cho các hồi kịch gọi là "Okina", diễn để chào năm mới hoặc cho những dịp đặc biệt. Đây là kịch nghi lễ bắt nguồn từ sarugaku, hình thức cổ điển của Noh, được ra đời trong thời kỳ cuối triều đại Heian ( thế kỷ 12). Nó có trước bất kỳ loại mặt nạ kịch Noh nào.

Mặt nạ dành cho người cao tuổi được gọi là Jo-men (mặt nạ Jo). Chúng có nhiều loại khác nhau, bao gồm Ko-jo, Asakura-jo, Sanko-jo, và Warai-jo, được phân biệt bởi mái tóc và thường được các diễn viên gạo cội dùng trong phần đầu của vở kịch, gọi là waki-no (thần) hoặc shura-no (chiến binh), họ xuất hiện trong vai những linh hồn.

Tùy thuộc vào vị trí xã hội hoặc các tình huống trong vở kịch, diễn viên chọn mặt nạ từ các loại Otoko-men (mặt nạ Otoko) khác nhau, bao gồm cả các nhân vật là lính, như Heida, Chūjō, Jūroku, Hatachi-Amari, Doji,Kasshiki.


Onna-men (mặt nạ Onna) là loại phổ biến nhất trong tất cả mặt nạ Noh. Có một số biến thể bao gồm Ko-omote, rất nổi tiếng, miêu tả một phụ nữ trẻ. Tùy thuộc vào độ tuổi hoặc tính chất các vai diễn, mặt nạ được chia thành loại khác nhau, chẳng hạn như Waka-onna, Shakumi, Uba, và Rojo.

Mặt nạ này được cho là đã xuất hiện trong giai đoạn đầu của lịch sử kịch Noh, nó đại diện cho các vai siêu nhiên. Cái mặt nạ này khác biệt rõ ràng bởi hình ảnh mạnh mẽ và hoang dã của nó, về cơ bản mặt nạ kiểu này được phân thành hai loại: Vai Tobide là quỷ man rợ, và Beshimi là yêu tinh như Tengu.

Đây là loại mặt nạ miêu tả hóa thân của người chết. Chúng bao gồm những con ma nam như Ayakashi, Yase-otokoKawazu, và những ma  nữ như YamanbaDeigan. Tất cả họ hoặc là hối hận, hoặc là hận thù thế giới. Hannya, một trong những loại mặt nạ nổi tiếng, cũng được phân vào nhóm này.

Trong kịch Noh, một mặt nạ có thể sử dụng cho nhiều vở kịch. Tùy theo nội dung của từng vở kịch mà các nghệ sĩ chọn mặt nạ cho phù hợp với yêu cầu. Bất cứ nhân vật nào không phải là đàn ông trung niên sống trong thời hiện tại, đều đeo mặt nạ. Do đó, tất cả các nhân vật như phụ nữ, đàn ông, ông già cũng như bóng ma, các vị thần, quỷ sứ và các sinh vật siêu phàm, đều đeo mặt nạ để diễn.

Mặt nạ đàn bà và những hồn ma trong vở kịch Aoi no ue

Mỗi vở kịch Noh là một câu chuyện về sự chuyển hóa. Aoi no ue ( Phu nhân Aoi) là câu chuyện về sự ghen tuông chuyển thành lòng thù hận và niềm hối tiếc sau một quá trình khám phá bản thân của nhân vật nữ chính Rokujō . Chuyện kể rằng, Aoi no ue, con gái của gia đình Sadaijin (quan thượng thư), vợ chính của Hikaru Genji bị ma ám và mắc bệnh nặng. Mặc dù gia đình đã cố gắng chữa trị nhưng bà không thể hồi phục. Gia đình đã quyết định mời nữ tu Teruhi, bậc thầy của nghệ thuật azusa, tới trị con ma này. Bị nữ tu giăng bẫy, bóng ma hiện nguyên hình là một linh hồn đầy thù hận của nữ quý tộc có tên là Rokujō, vợ của một thái tử đã chết và là một người tình của Genji. Nhìn bà Aoi hạnh phúc, linh hồn của Rokujō khóc than cho sự đau đớn đang ngày càng tăng của mình, cô bị giằng xé bởi lòng ghen tuông và quyết ám hại Aoi để trục xuất linh hồn của cô ấy, giống như một người vợ ghen ghét và cố đánh bại người tình trẻ của chồng.

Rokujio đeo mặt nạ Deigan và linh hồn giận dữ của mình đeo mặt nạ Hannya
Gia đình Sadaijin rất kinh ngạc bởi sự giận dữ của cô Rokujō và vội vàng mời pháp sư Yokawa-no-kohijiri, là môn đệ giỏi của Shugen-do. Khi pháp sư niệm Bát nhã tâm kinh (Hannya Shingyō), sự ghen tị trong trái tim Rokujō hiện thân là một yêu nữ. Con yêu này không chỉ tấn công bà Aoi mà cả pháp sư. Sau trận chiến kịch liệt giữa các vị sư và oan hồn, Rokujō đã buông xả ác tâm và đạt Phật tánh. (Theo: www.the-noh.com)

Mặt nạ Deigan
Ở hồi đầu của vở kịch, Rokujio đeo mặt nạ có tên là Deigan, tên Deigan xuất phát từ việc mặt nạ được sơn nhũ vàng gọi là kindei xung quanh mắt. Nhũ vàng còn được sơn trên răng nhằm biểu thị một thực thể ở bên ngoài thế tục. Đây là khuôn mặt của một phụ nữ quyến rũ với cảm xúc oán giận bị kìm nén cùng một phức hợp cảm xúc ghen tuông điên cuồng. "Mặt nạ Deigan là một thách thức thực sự cho người chế tác, rất khó để tạo một mái tóc rối bời, một cái miệng khao khát được nói và một đôi mắt có vẻ nhìn khinh thị nhưng tội nghiệp. Đây là mặt nạ của vẻ đẹp quý phái với vầng hào quang ma mị chung quanh".(2)

Mặt nạ Hannya
Ở hồi cuối của vở kịch, Rokujio hóa thân thành một yêu nữ, xuất hiện trong mặt nạ có tên là Hannya (般若, âm Hán Việt là "Ban Nhược" hoặc "Bát Nhã"). Hannya đại diện cho khuôn mặt của phụ nữ bị tàn phá bởi sự điên cuồng và đố kị, đã biến thành hồn ma để báo thù. Người Nhật xưa cho rằng trong người phụ nữ luôn có giấu hai cái sừng, khi họ điên cuồng vì ghen tuông thì cái sừng sẵn có đó xuất hiện và biến họ thành Hannya kinh dị. Cái mặt nạ Hannya nhìn kinh dị thật: cặp mắt tròn long sòng sọc, hai gò má nhô lên nhọn hoắt, cái miệng đỏ lòm cùng răng nanh sắc nhọn rộng tới mang tai, như muốn ăn tươi nuốt sống người ta. Cái phần trán nhô ra đè sụp cả mí mắt cộng thêm hai cái sừng trên đầu, tạo cảm giác hung hãn và sẵn sàng tấn công người đối diện. Đáng sợ hơn là khuôn mặt quỷ cái này lại được nhân cách hóa thành người, khuôn mặt Hannya mang ấn tượng hỗn hợp giữa sự hiểm độc của quỷ lẫn niềm đau khổ của linh hồn người chưa siêu thoát.

Vai chính trong một vở kịch Noh được gọi là shite. Shite bao gồm nhiều thể loại nhân vật như: vị thần, ma chiến binh, ma nữ, đàn bà điên, đàn ông hay phụ nữ, hoặc là các nhân vật huyền thoại như tengu (yêu tinh mũi dài) hay con rồng. Trong nửa đầu của một Noh các shite được gọi là mae-shite, và trong nửa thứ hai được gọi là nochi-shite. Vở Aoi no ue  được phân vào nhóm Mugen Noh; là các vở kịch có câu chuyên siêu thực liên quan tới ma quỷ, mae-shite ở hồi đầu là linh hồn Rokujio đeo mặt nạ có tên là Deigan nochi-shite ở hồi sau cũng là linh hồn nhưng linh hồn quỷ đeo mặt nạ Hannya, mặc dù hai nhân vật đeo mặt nạ hoàn toàn khác nhau nhưng hầu như luôn luôn được cùng một nghệ sĩ biểu diễn.

Mặt nạ Ko-omote
Vai phụ trong một vở kịch Noh được gọi là waki. Giống như shite, waki cũng bao gồm nhiều thể loại nhân vật như: thầy tu đi hành khất, kẻ thù của shite... Trong Mugen Noh, waki phải luôn là một nhân vật trần thế, thường gây ảnh hưởng lên shite và giúp giải thoát shite. Nhóm Waki không bao giờ mang mặt nạ. Họ là người làm nền cho Shite, có vai trò chất vấn nhân vật chính, và đây là chi tiết quan trọng trong tiến trình phát triển câu chuyện. Cả shitewaki cũng thường xuất hiện cặp đôi cùng với bạn diễn gọi là Tsure, tương ứng với shite shite-tsurewakiwaki-tsure. Waki trong vở kịch này là pháp sư Yokawa-no-kohijiri còn waki-tsure là phụ tá của pháp sư này. Trong khi đó shite-tsure cho nhân vật chính Rokujio là nữ tu đeo mặt nạ Ko-omote.

Ko-omote là dạng mặt nạ nữ (onna-men) rất phổ biến. Mặt nạ này đại diện cho thiếu nữ ở độ tuổi xuân thì. Không đơn giản chỉ mang vẻ đẹp ngây thơ, trong trắng, nó còn biểu cảm những cảm xúc nội tâm của giới tính trong giai đoạn tâm sinh lý đang định hình, nó hàm chứa cả sự ngây thơ nhưng không thiếu hiềm thù và đố kỵ. "Những đường cong mượt mà và duyên dáng tạo tính chất tổng thể cho gương mặt kiểu này. Cái phần trải dài từ mí mắt qua sống mũi không gợn một nếp nhăn và mịn màng một cách đặc biệt, buộc người nghệ nhân tạo tác chiếc mặt nạ này phải gạt bỏ những cảm xúc thuộc về trần thế trong suy nghĩ. Cái miệng đầy đặn quyến rũ dường như muốn dấu một nụ cười, những đuôi mắt là điểm đặc biệt nhất của Ko-omote, chúng tiết lộ sự sắc sảo trong tính cách có lẽ nhằm để giữ vẻ dịu dàng trinh nữ".(2)


Ko-omote, Deigan hay Hannya là những trạng thái cảm xúc: trong trắng, phẫn uất, điên cuồng. Vở kịch đưa người xem vào phức cảm bi ai của sự hận thù và niềm hối tiếc:

"Nếu tôi đi trên chiếc xe tam bảo, chạy bởi lòng từ bi của Đức Phật, 
nếu tôi đi theo con đường của Đức Phật, tôi có thể thoát qua cửa thế gian khổ đau này?
Tôi, người đi trên một chiếc xe tồi tàn, vỡ nát, sẽ có thể đi về đâu?
Ah, sự oán hờn của tôi không có thể đi đến đâu cả


Cuộc đời chông chênh như một bánh xe, 
Cuộc đời khổ ải như một bánh xe, 
Bánh xe nghiệp chướng quay vòng vòng".               
                                                   (lời tự sự của Rokujio khi xuất hiện trên sân khấu) (theo: plays)

Phong vị Phật giáo thiền tông thấm đẫm lời ca trong nhịp điệu chậm và gợi nhiều liên tưởng. Cái đẹp của Noh vượt ra ngoài nội dung của câu chuyện mà nó chuyên chở: Noh không kể một câu chuyện, Noh nói về một triết lý.

Mặt nạ đàn ông, nam thần và yêu quái trong vở kịch Kokaji và Kuzu


Kokaji Kuzu là hai câu chuyện của những người đàn ông. Chúng có cốt truyện đơn giản nhưng lại rất nổi bật về mặt vũ đạo. Vũ đạo của hai vở kịch này được coi như là chuẩn mực trong trình diễn Noh. (xem video ở đây)

Kokaji (thợ rèn kiếm) kể câu chuyện xảy ra trong thời Heian. Chuyện kể rằng thợ rèn kiếm nổi danh Sanjō no Kokaji Munechika được hoàng đế Ichijo (980-1011) đặt làm một thanh kiếm báu, ông rất lưỡng lự vì không có phụ tá đáp ứng được yêu cầu. Khi phái viên triều đình giải thích rằng cách thức rèn kiếm sẽ được cung cấp bởi những hướng dẫn xuất hiện trong giấc mơ của hoàng đế, Munechika liền đi đến đền Inari để cầu nguyện sự giúp đỡ từ thánh thần. Đáp lại lời nguyện cầu, thần Inari (thần cáo) xuất hiện trong hình thức của một chàng trai  trẻ đã trấn an anh ta, với một lời hứa hỗ trợ. Sau đó họ cùng nhau làm một thanh kiếm tuyệt vời.


Mae-shite mang mặt nạ Doji/Jido, và nochi-shite mang mặt nạ Ko-tobide
Trong vở kịch này, mae-shite là cậu bé mang mặt nạ Doji/Jido, còn nochi-shite là thần Inari mang mặt nạ Ko-otobide. Vai phụ (waki) là nghệ nhân rèn kiếm Munechika, bạn diễn (waki-tshu) của Munechika là sứ giả nhà vua, cả hai đều không đeo mặt nạ.

Mặt nạ Doji
"Doji là trẻ con, khuôn mặt của nó thể hiện hình ảnh của người đàn ông chưa trưởng thành. Khuôn mặt dạng tròn và có nét phụ nữ như thường thấy ở người ái nam ái nữ. cái miệng hé mở, khóe môi cong lên như thể muốn nói. Mặt nạ Doji có độ cong ít hơn mặt nạ onna-men. Doji không hẳn là một cậu bé - sự kết hợp giữa vẻ đẹp quý phái và vẻ thanh cao không vướng bụi trần làm cái mặt nạ này thường được dùng cho các nhân vật thần tiên trong hình dạng con người.

Mặc dầu tiếng Nhật gọi "doji" là trẻ con nhưng trong Noh nó không đơn giản chỉ mang ý nghĩa này. Nó thiên về ý nghĩa của biểu tượng thần thánh nhằm vào sự trẻ trung vĩnh cửu.

Những sợi tóc kéo căng phủ qua lông mày của đứa trẻ được vẽ rất khéo léo. Mỗi sợi tóc đòi hỏi người vẽ sự dụng công rất lớn để làm cho nó tự nhiên như không. Cặp lông mày cong thanh nhã kết hợp với cái miệng như muốn mở tạo ra một cảm giác bí ẩn tinh quái. Đây không phải là cái mặt nạ mà người cứ có kinh ngiệm là làm được, nó cần một nghệ nhân có một mỹ cảm nhạy bén bẩm sinh". (2)

Một vài trường dạy kịch Noh lại dùng mặt nạ Kasshiki thay cho mặt nạ Doji trong vở kich này. Kasshiki là thầy tu giúp việc, người này có nhiệm vụ thông báo thực đơn hàng ngày cho đạo hữu khi họ tập trung lại để tụng kinh Phật. Mặt na Kasshiki là bản sao của mặt nạ trẻ con.

Mặt nạ Kasshiki
"Điểm chính yếu để phân biệt mặt nạ này là chùm tóc hình lá bạch quả ở trước trán. Khóe miệng vểnh lên nhẹ trong khi mí ngoài của lông mày và đuôi mắt cong ngược lên. Nghệ nhân phải tạo cho đươc khuôn mặt nghiêm nghị nhưng tươi cười với cái nhìn bén nhạy và sắc sảo khi làm cái mặt nạ này". (2)

Vũ đạo trong kịch Noh được gọi chung là mai, mai cùng với ca từ và nhạc cụ là những thành phần cơ bản của nghệ thuật này. Các vị thần luôn xuất hiện trong vũ đạo có tên là kami-mai, vũ đạo này rất nhanh, đẹp và nghiêm trang. Những động tác nhấc cao chân và dộng xuống sàn; nhằm tạo hiệu ứng âm thanh được khuếch đại bởi hệ thống nhiều cái lu rỗng bên dưới sân khấu; thường được các nhân vật kiểu này khai thác. Khi thần Inari xuất hiện, sân khấu bị khuấy động bởi âm thanh và vũ đạo mạnh mẽ. Khuôn mặt xương xẩu ẩn trong mái tóc dài rũ rượi tạo cho nhân vật vẻ cổ quái đặc biệt. Trong vở Kuzu, nam thần xuất hiện dưới mặt nạ Otobide, trong vũ đạo nhằm xiển dương công đức của Hoàng đế Temmu đã trở thành một chuẩn mực cho điệu kami-mai này.

Mặt nạ Otobide
Otobide là mặt nạ cho những vai thần bay lượn trên thiên đường. cái mặt nạ được phủ nhũ vàng, mắt to, lông mày cong vòng và miệng rộng tới mang tai, đại diện cho một thế lực siêu nhiên mạnh mẽ. Khi nhìn kỹ, ta sẽ thấy con mắt trái nhìn lên trên còn con mắt phải thì nhìn xuống dưới, bởi vì vị thần này quan sát thiên đình lẫn hạ giới trong cùng một lúc.(2)

Kuzu là vở kịch ca ngợi việc thiện. Đó là câu chuyện của hai vợ chồng ngư phủ già liều mình cứu hoàng đế chạy nạn. Khi làm việc thiện; bằng cách phóng sanh một con cá do ngư phủ mang cho; hành động này như một điềm báo về sự phục hưng của Hoàng đế. Để xiển dương công đức này vợ chồng ngư phủ hóa thành nam thần và nữ thần trong một điệu múa hân hoan mừng triều đại mới.

Ông ngư phủ đóng vai chính (shite) đeo mặt nạ Sanko-Jo, bạn diễn là bà ngư phủ (tsure) đeo mặt nạ Uba, trong khi Hoàng đế là một đứa trẻ và không đeo mặt nạ như quy ước trong Noh truyền thống.

Mặt nạ Sanko-Jo
"Sanko-Jo được gọi theo tên của người tạo tác nó là một thầy tu ở đền Heijenji thuộc tỉnh Echizen vào cuối thời Muromachi (1338-1578). Ông già này có nụ cười nhăn nheo trên gương mặt xương xẩu với gò má cao và cơ má xệ. Gương mặt cục mịch này là của những người lao động chân tay và thường được chọn cho các vai diễn quê mùa như thợ xẻ, thợ làm muối hay ngư dân"(2)

Trở lại thế kỷ 14, thời điểm mà Noh trở thành một môn nghệ thuật như ta thấy ngày nay. Thời đó rất ít người Nhật có tuổi thọ cao, người cao tuổi luôn nhận được sự tôn kính của xã hội và thậm chí họ còn được ban cho sức mạnh của thánh thần. Mặt nạ Jo, vì vậy, cũng thường được chọn cho các vai tôn quý như vai Thượng đế trong hình dáng con người. Những mặt nạ kiểu này được gọi chung là Okina gồm hai mặt nạ rất nổi tiếng là Kokushiki-joHakushiki-jo, chúng có trước kịch Noh và tách biệt hẳn nội dung vở kịch. Khi xuất hiện, chúng là hình ảnh của thần thánh trong nỗ lực ban phát ân sủng cho con người. Đây là một ví dụ cho thấy cội nguồn của nghệ thuât được tách ra từ nghi lễ thiêng liêng.

Mặt nạ Noh trong nghệ thuật trình diễn

Sân khấu Noh hoàn chỉnh phải gồm ba phần: phòng kiếng (kagami-no-ma, cầu dẫn (hashigakari) vả sân khấu chính (hon-butai)Khán giả thấy nghệ sĩ xuất hiện trên cầu dẫn nhưng với diễn viên, vở kịch đã bắt đầu từ phòng kiếng được thiết kế ẩn bên trong.

Mô hình sân khấu Noh và vị trí của dàn nhạc và diễn viên
Phòng kiếng (kagami-no-ma - mirror room) là địa điểm đặc biệt của các shite, với họ nơi đây vở diễn chính thức bắt đầu, nơi đây họ chuẩn bị trang phục và thực hiện một nghi lễ đặc biệt là đeo mặt nạ. Tuần tự, chậm rải và tôn kính, diễn viên Noh nâng mặt nạ trên hai tay, nhìn vào khoảng tối phía bên trong và hoá thân vào vai diễn trong những khoảng lặng liên tục như là nghi thức, trước và sau khi áp mặt nạ vào mặt mình. Người ta nói rằng người nghệ sĩ Noh giỏi là người không đeo mặt nạ mà để mặt nạ tự kéo khuôn mặt mình vào.

Phòng kiếng (kagami-no-ma)
Tiếng Nhật không gọi mặt nạ Nohmen (mask / mặt nạ) mà gọi là omote (facade / khuôn mặt có sắc diện). Điều này cho thấy một mối quan hệ đặc biệt giữa nghệ sĩ và mặt nạ của họ, với họ, mặt nạ không phải là một vật phẩm bằng gỗ mà là một người đồng hành có khả năng ban cho họ ma thuật và quyền lực siêu nhiên. Vì vậy, ngoài việc thể hiện tính thẩm mỹ cao, mặt nạ Noh còn là phương tiện truyền thông của những thế lực siêu nhiên, của các vị thần và có sức mạnh tinh thần nội tại. Khi mặt nạ được đeo lên, ánh sáng bị cản lại và bóng tối phủ lên khuôn mặt nghệ sĩ, bảy vị trí gồm mắt mũi, miệng và tai sẽ là những cánh cổng thụ cảm của họ, "như những ngôi sao trong chòm Bắc Đẩu, chúng dẫn hướng để (nghệ sĩ) đi qua hành trình làm người" (Nearman (1984).

Hành trình này được Zeami Motokiyo (1363–1443), ông tổ kịch Noh ngày nay (xem thêm: http://en.wikipedia.org/wiki/Zeami_Motokiyo), gọi là Hana (flower/hoa).  Đây là khái niệm nhằm chỉ ra cái đích để mỗi nghệ sĩ Noh hướng tới trong nghệ thuật trình diễn của mình. Hoa được hiểu như là một quá trình, là sự công phu luyện tập của người diễn viên. Hoa nhất thời để chỉ các diễn viên thiếu niên có vẻ đẹp trong sáng, giọng ca trong trẻo nhưng sẽ tàn đi theo thời gian. Hoa thật sự là hoa sẽ nảy nở trong suốt cả sự nghiệp khổ công luyện tập của người nghệ sĩ.

Nghệ sĩ Katsumi Endo đang đeo mặt na trong phòng kiếng (theo: http://townhall.com)
Nhiều mặt nạ Noh dùng cho nhân vật là người có kích thước nhỏ, không che hết khuôn mặt. nó chỉ che vừa khít phần mặt trước, trán, hai gò má, miệng và để lộ ra cái cằm của người nghệ sĩ, Chính chuyển động của cằm và cổ làm thay đổi góc nghiêng của mặt nạ nhằm tạo ra những sắc thái biểu cảm khác nhau. Những loại mặt nạ che toàn bộ khuôn mặt thường có mục đích giả trang để mô tả những nhân vật huyền thoại như là Hannya hay Otobide chẳng hạn.

Mặt nạ Noh có phần đục lỗ ở vị trí con mắt cực kỳ nhỏ. Mặt nạ cho vai nữ có lỗ con mắt chuyển dần hình dạng từ vuông qua bầu dục rồi tròn theo thứ tự tăng dần tuổi tác. Người ta cho rằng cái lỗ hình vuông làm thị trường bị nhòa và không gom lại khiến cho nghệ sĩ phải nhìn qua một môi trường ảo, chính điều này làm tăng khả năng thể hiện những biểu đạt tinh tế nhất. Đây cũng là lý do để sân khấu Noh luôn có thiết kế bốn cột ở góc, các cột này là mốc để người nghệ sĩ điều hướng và ngăn không cho họ rơi ra ngoài.


Mặt sau của một mặt nạ Noh, miếng vải  màu xanh có lẽ có tác dụng chêm cho vừa khít khuôn mặt người biểu diễn
Trong một vài trường hợp đặc biệt, như ở phần hai của vở Daie, người nghệ sĩ có lúc phải đeo hai cái mặt nạ và hai bộ trang phục để nhanh chóng chuyển từ vai Phật qua vai yêu tinh. Những lúc này nghệ sĩ hầu như bị mù, họ diễn bằng trực giác và hóa thân hoàn toàn vào nhân vật.

Zeami cho rằng vẻ đẹp tuyệt đích được miêu tả tốt nhất bằng hình thức diễn xuất cách điệu và những hình thức biểu hiện đơn giản nhất. Nhiều động tác cố định được sáng tạo, gọi là Kata: ví dụ, có ba cách cho thấy nỗi buồn, tùy theo chiều sâu nỗi buồn ấy: thứ nhất, chỉ đơn giản là cúi thấp mặt cho thấy nỗi buồn man mác; thứ hai, cúi thấp mặt và đưa tay ngang mắt hai lần, không thực sự chạm vào mắt (tượng trưng cho việc lau đi một giọt nước mắt) để cho thấy một nỗi buồn sâu thẳm; thứ ba cúi thấp mặt và đưa cả hai tay lên ngang mắt, lặp lại động tác hai lần, biểu thị nỗi tuyệt vọng. Tính biểu cảm giản đơn của Noh đã tạo ra một không khí riêng, được miêu tả bằng thuật ngữ wabi và sabi biểu thị trạng thái yên tĩnh.(theo: Fushi-Kaden, Ze-Ami & Zenchiku (1974)

Bên cạnh đa số vai diễn sử dụng mặt nạ, có một số vai diễn không sử dụng mặt nạ như vai thị đồng (dành cho diễn viên trẻ, ít kinh nghiệm) và Hitamen (diễn viên lão thành). Với loại vai Hitamen, diễn viên phải dồn nén cảm xúc để diễn bằng khuôn mặt thật, không hóa trang với nét mặt lạnh lùng, mắt nhìn vào cõi hư không trong suốt buổi diễn. Chỉ có những nghệ sĩ bậc thầy, dày dạn kinh nghiệm mới có thể biến chính khuôn mặt mình thành mặt nạ Ko omote. Khi khuôn mặt – mặt nạ trở thành tấm gương thu nhỏ và phóng đại cảm xúc cũng chính lúc người nghệ sĩ đã lột tả được hết vẻ đẹp của kịch Noh và đạt tới đỉnh cao nghệ thuật biểu diễn này. (theo:Xuan Phong

Mặt nạ Noh: nghệ thuật chế tác

Mặt nạ Noh phần lớn được chạm khắc từ loại gỗ Hinoki. Trong số các loại mặt nạ, loại dành cho Quỷ (đặc biệt là Hannya) lại được chạm khắc công phu và tinh xảo nhất trên loại gỗ cứng. Ngược lại, loại dành cho nữ (nhất là Ko-omote) chạm khắc ít nhất nhưng lại được tô vẽ tinh tế nhất trên loại gỗ mềm.

Xin xem đoạn video rat thu vi này: http://www.youtube.com/watch?v=Ze4pe1ZqmGo

Lời kết

Có lẽ không dân tộc nào trân trọng sự lụi tàn như người Nhật, những khái niệm mỹ học Nhật Bản như “aware” (bi cảm), “yugen” (u huyền), “wabi” (đà), “sabi” (tịch) đều nội hàm trong mình ý nghĩa diệt vong.

" Phù bào khoảnh khắc vòng sinh diệt
Sớm nở đêm tàn tựa kiếp hoa…" (http://www.oldcottage.net/thohaiku/thohaiku.html)


Không ngẫu nhiên mà Zeami chọn hana / hoa làm biểu tượng của cuộc đời người nghệ sĩ noh, bởi nghiệp hoa, nói cho cùng là một sự tận hiến đến định mệnh diệt vong cuối cùng.

Thọ nghiệp để hiểu nghiệp âu cũng là một cách để trường tồn vậy!


Wednesday, 30 April 2014

Mặt nạ Guy Fawkes - Biểu tình vòng quanh thế giới


Tháng tư thường gợi những cảm xúc buồn. Dường như "midlife crisis" ngày càng có ép phê mạnh. Cảm giác bức bối và ngột ngạt cứ đè nặng. Cần một chút freedoom. Nhớ về "V for Vendetta" với mặt nạ Guy Fawkes cùng những triết lý tự do có sức lay động mãnh liệt.

Từ những trích dẫn

Đi làm. Cưới vợ. Đẻ con. Đóng thuế. Trả nợ. Coi TV. Chạy theo thời trang.
Làm việc bình thường. Tuân thủ pháp luật. Và lặp lại  theo tôi: Tôi tự do.
Tôi tự hỏi có phải cuộc đời mình được túm gọn như nội dung pano trên? Mà phải thật, chính xác 100%. Không có gi sai chạy. Cuộc đời mình sao mà buồn thế! Tự do được lặp lại dưới hình thức tư duy của vẹt!

Thay đổi sẽ không có nếu chúng ta đợi chờ nó từ người khác hay từ dịp khác.
Chúng ta là cái mà chúng ta đợi chờ. Chúng ta tự  đổi thay, đó là điều chúng ta tìm kiếm
Tôi muốn cuộc đời mình ít nhiều như nội dung bên trên. Tôi muốn làm chủ cuộc đời, điều khiển vận mệnh. Tôi đang mơ?

Không ai cho anh tự do. Không ai cho anh công bằng và công lý. Nếu anh là con người, hãy nắm lấy nó.
Không phải mơ mà là không tưởng ở nơi tôi đang tồn tại. Những giá trị phổ quát hiển nhiên không tồn tại nơi này.

Qua một huyền thoại cách mạng

Khởi nguồn từ câu chuyện từng gây chấn động lịch sử trong thế kỷ 17. Guy Fawkes (13/4/1570 - 31/1/1606), còn được gọi là Guido Fawkes, là một thành viên của một nhóm tín đồ công giáo Anh  cùng với 12 người bạn âm mưu làm nổ tung tòa nhà Quốc hội Anh vào ngày 5/11/1605. Họ muốn tiến hành việc đó nhằm ám sát vua James Đệ nhất và hoàng tử xứ Wales, cũng như các thành viên quốc hội khác theo đạo tin lành. Guy và những người bạn chuẩn bị 36 thùng thuốc nổ, đem đến đặt ở tầng hầm của tòa nhà Thượng nghị viện. Mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi nhưng một số người trong nhóm suy nghĩ lại và lo sợ hậu quả nên đã gửi thư nặc danh cho một người bạn của Guy là nghị sĩ Monteagle, để khuyên ông này tránh xa tòa nhà sẽ xảy ra vụ nổ. Không may lá thư lọt vào tay nhà vua. Âm mưu liền bị chặn đứng.

Chân dung ông Guy Fawkes
Năm 1606, Fawkes bị kết tội phản quốc, chịu hình phạt ở mức cao nhất là treo cổ, móc lấy nội tạng và cho xe kéo lê khắp phố phường. Thi thể của ông được đưa đến bốn vùng của nước Anh để mọi người tận mắt chứng kiến. Nhà vua hy vọng trước khi chết Fawkes có thể nói ra những lời khuất phục, nhưng đáp lại, ông vẫn giữ gương mặt có nét biểu cảm cười mà như không cười đẩy vẻ bí ẩn.

Fawkes đã để lại một dấu ấn lâu dài trong lịch sử và văn hóa đại chúng. Ông đã được nhắc đến trong phim ảnh, văn học và âm nhạc qua các tác phẩm của Charles Dickens hay John Lennon. Tên ông cũng được đặt tên cho một vài địa danh như Isla Guy Fawkes trên Quần đảo Galápagos hay Sông Guy Fawkes tại Australia (theo: mat-na-guy-fawkes-bieu-tuong-cua-tu-tuong-vo-chinh-phu).

Ở phía có quan điểm khác, những người ủng hộ hoàng gia biết đức vua của họ thoát chết đã vui mừng đốt lửa tạ ơn. Những năm sau đó, người ta nhóm lên những đống lửa lớn và ném các hình nộm của Guy Fawkes cho "bà hỏa". Cũng từ đó về sau, tại nước Anh, ngày Guy Fawkes 5/11 được gọi theo tên mới là Bonfire Night (Đêm đốt lửa). Rồi càng ngày, người ta tổ chức lễ hội này càng phức tạp hơn. Mọi người bắn pháo bông để lễ hội thêm sinh động, với ý nghĩa mừng cho đức vua yêu quý của họ không bị 36 thùng thuốc nổ của Guy Fawkes làm bay lên trời (Dac sac le hoi Bonfire).

Đến một thiết kế

Năm 1982, hình ảnh về Fawkes bật sống dậy nhờ họa sĩ truyện tranh David Lloyd & Alan Moore trên tác phẩm “V for vendetta” được đăng trên một tạp chí truyện tranh Anh. Loyd nhớ lại: "đó là một "tai nạn", hợp tuyển truyện tranh đen trắng đang triển khai có tên là "Warrior" bị đình bản trước khi "V for vendetta" (là một câu chuyện trong đó) kết thúc vào năm 1985". Bộ truyện này sau đó được DC comic tái bản màu vào năm 1998 và đây là cơ hội cho David Lloyd & Alan Moore hoàn thành câu chuyện (theo: David Lloyd-guy fawkes-mask).

Hình mặt nạ Guy Fawkes do họa sĩ David Lloyd vẽ riêng cho International Business Time
"Tôi nhớ về bộ ria mép, bộ ria gợi tới một nụ cười và thật sự đã có một nụ cười. Vì thế tôi thể hiện nụ cười trên mặt nạ" David Lloyd nhớ lại. "nụ cười hóa ra là một tai nạn rất lớn bởi vì nó cộng hưởng nhiều sắc thái cảm xúc -"mỉm cười khi đối mặt với nghịch cảnh, cười ngay cả khi trái tim của bạn tan vỡ, mỉm cười cả khi đối mặt với hổ"- tất cả tạo nên một tổng thể tuyệt vời (theo: David Lloyd-guy fawkes-mask).

Một Guy Fawkes khác được vẽ bởi David Lloyd (nguồn: vforvendetta.org)
Trên trang www.facebook.com/GuyFawkesInnYork, một sinh viên tên Steve chia sẻ: “Nếu bạn nhìn kỹ chiếc mặt nạ sẽ có cảm giác khuôn mặt này thực ra không cười, mà chỉ chất chứa toàn nỗi buồn”. Đây là một nhận xét tinh tế bởi vì trên khuôn mặt phản ánh tâm trạng của những kẻ "chiếu dưới" trong cuộc đấu tranh tìm sự công bằng.

Chi tiết một mặt nạ điển hình
Có thể đọc được nhiều sắc thái biểu cảm trên khuôn mặt ở các góc độ khác nhau như hình bên trên. Trong một phút xuất thần, David Lloyd đã để lại cho thế giới không chỉ một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một biểu tượng vượt lên ý nghĩa mỹ thuật thông thường.

David Lloyd & Alan Moore
Một cuốn phim

“Dưới mặt nạ này còn hơn cả da thịt. Dưới mặt nạ này là một lý tưởng…Và lý tưởng không thể bị súng đạn xuyên thủng”. Đây là tuyên ngôn của nhân vật V; luôn đeo mặt nạ Guy Fawkes; trước trận chiến cuối cùng. Mặt nạ đã không đơn thuần để giấu một hành tung mà là để bảo vệ một lý tưởng.

Người dân không nên sợ chính phủ. Chính phủ nên sợ người dân của mình
Cái poster ngang ngạnh này gợi rất nhiều tò mò thúc giục khán giả xem phim và họ đã có một “V for Vendetta” để lại những dư vị không thể nào quên trong lòng người yêu điện ảnh.

“Chúng ta được bảo rằng hãy ghi nhớ một lý tưởng thay vì một con người. Bởi vì con người có thể gục ngã, ông ta có thể bị bắt, bị giết và bị lãng quên. Nhưng 400 năm sau..., một lý tưởng vẫn có thể thay đổi thế giới” (Lời dẫn chuyện của nhân vật Evey).

Cảnh người dân London đeo mặt nạ Guy Fawkes đổ tới tòa nhà quốc hội
Không phải là một cá nhân mà là hàng vạn người dân London đổ xuống đường với trang phục giống V, khoác áo choàng đen, đeo mặt nạ Guy Fawkes để cùng đại diện cho một lý tưởng. “Anh ta là ai?”, “Anh ấy là Edmond Dantes…Và anh ấy là cha tôi…và mẹ tôi… Là anh trai tôi…Là bạn tôi… Anh ấy là ông … và là tôi. Anh ấy là tất cả chúng ta” (lời thoại của Evey). V với mặt nạ Guy Fawkes đã trở thành biểu tượng cho sự phẫn nộ của quần chúng, những người bị đè nén, áp bức, quyết định đứng dậy chiến đấu cho tự do của họ (theo: Thang 11 khong the nao quen trong V for vendetta).

Trở thành biểu tượng

Lịch sử có những trò đùa của nó. Điều trớ trêu là mặt nạ Guy Fawkes được những người vô chính phủ sử dụng để phản đối chính bộ phim có công đưa nó thành biểu tượng. Họ dùng slogan "A for Anarchy" (A vô chính phủ) để đối lại “V for Vendetta” (V báo thù).

Những người vô chính phủ biểu tình trước trụ sở DC Comic. Slogan của phim được cố tình sửa lại:
Người dân không nên sợ chính phủ. Chính phủ nên bị hủy hoại bởi người dân của mình (Ảnh: Alex Beck)
"Bộ phim và truyện tranh chứa những yếu tố bạo lực liên quan tới chủ trương vô chính phủ nhưng không có ý nghĩa tích cực. Chúng tôi muốn dùng bộ phim này như là bàn đạp để thu hút mọi người hiểu đúng về ý nghĩa thực sự của chủ nghĩa vô chính phủ" Nova, 51 tuổi, người chủ trương vô chính phủ đã từng tham gia biểu tình chống toàn cầu hóa và chiến tranh Việt nam nói như vậy. "Vô chính phủ thật sự phải tin vào một thể chế chống nhà nước, trong đó bạo lực và nghèo đói không còn tồn tại sau khi các luật lệ độc tài và các chính phủ đã được bãi bỏ. Họ tìm kiếm một xã hội hòa bình, trong đó các cộng đồng nhỏ làm việc hợp tác, trao đổi hàng hóa và dịch vụ thay vì dựa vào một nền kinh tế thị trường hoặc chính phủ cảnh sát hậu thuẫn" (theo: anarchist fight).

Cuộc biểu tình này ngay lập tức vấp phải một cuộc phản biểu tình khác do phe theo chủ nghĩa tư bản tự do tổ chức ở cùng địa điểm. "Nếu họ thực sự hiểu kinh tế, tôi nghĩ rằng họ sẽ nhìn thấy chủ nghĩa tư bản, Hollywood và truyện tranh như các lực lượng giải phóng chứ không phải là kẻ thù" Todd Seavey một người biểu tình theo chủ nghĩa tự do phát biểu.

Những người phản biểu tình dùng biểu tượng chữ D màu đỏ cùng slogan "D for Diplomacy"
Một điều khá hài hước là cả hai phe đều phục trang như nhau và cùng đeo mặt nạ Guy Fawkes. Nhóm theo chủ nghĩa tự do tự phân biệt mình với nhóm vô chính phủ bằng biểu tượng chữ D màu đỏ với solgan "D for diplomacy" (D chính thống). Di sản đầy tranh cãi (xem thêm) của nhà cách mạng Guy Fawkes đã được sử dụng một cách đầy  mâu thuẫn!

Hai năm sau cuộc biểu tình tại New York, vào tháng 2 năm 2008, mặt nạ Guy Fawkes lại trở nên nổi đình nổi đám với phong trào Project Chanology do nhóm tin tặc Anonymous (nặc danh) khởi xướng nhằm chống lại giáo phái Scientology (tạm dịch là Khoa Luận Giáo).

Thành viên của Anonymous biểu tình tại trụ sở chính của nhà thờ Scientology vào ngày 10/02/2008
Scientology nổi tiếng là một tổ chức ưa kiện tụng. Họ phản đối việc Youtube đăng tải bài phỏng vấn Tom Cruise - một thành viên nổi tiếng của Scientology với lý do vi phạm bản quyền. Ngay sau đó, tổ chức Anonymous đã “tuyên bố chiến tranh” với Scientology, cho rằng tổ chức này đe dọa quyền tự do thông tin. Hơn 7.000 người đã hưởng ứng Anonymous biểu tình chống Scientology tại hơn 90 thành phố trên thế giới (Theo: Scientology). Những người biểu tình được khuyến khích đeo mặt nạ nhằm tránh việc ghi hình của giáo hội này, nhưng điều quan trọng hơn là họ muốn thu hút sự chú ý của dư luận bởi tính chất ẩn danh của họ. Mặt nạ Guy Fawkes đã được chọn để sử dụng và trở thành biểu tượng đại diện chung cho cả nhóm.

Chúng tôi là ẩn danh
Từ biểu tượng cho những phản kháng có tính dân sự, xã hội, mặt nạ Guy Fawkes được sử dụng nhiều hơn trong những phong trào có tính chính trị mang màu sắc chống đối chế độ trong thời gian gần đây. 

Biểu tình trước tòa nhà quốc hội Anh. 
Ngày 23/05/2009. Dân London biểu tình chống sự chi tiêu lãng phí của các ông nghị. Các nhà tổ chức của "Guy Fawkes flashmob" mang theo thùng thuốc súng giả và pháo hoa để đốt lên trong một cuộc biểu tình đầy màu sắc (theo: http://news.bbc.co.uk).

Biểu tình tại  công viên  Zuccotti, New York
Occupy Wall Street (Hãy chiếm lấy Phố Wall) là một cuộc biểu tình bắt đầu diễn ra ngày 17/09/2011 trung tâm tài chính Wall Street (NY) sau đó lan ra nhiều thành phố lớn ở Mỹ. Người biểu tình Mỹ không đòi dân chủ, mà yêu cầu nhiều công bằng xã hội hơn. Đối tượng phản đối của họ là sự hung hãn và tham lam của giới tài chính, ảnh hưởng của giới tài chính lên nền chính trị Hoa Kỳ, lên án giới ngân hàng, thủ phạm của cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Mặt nạ ở đây không còn tác dụng che dấu mà mang ý nghĩa biểu tượng, người ta đeo mặt ra sau gáy nhiều hơn là trước mặt.

Phong trào này sau đó lan ra khắp châu Âu (xem thêm: Occupy the world). Tại London, Julian Assange cha đẻ trang web wikileak đeo mặt nạ Guy Fawkers tham gia biểu tình đã bị cảnh sát Anh buộc phải tháo mặt nạ.

Julian Assange buộc phải gỡ mặt nạ, ảnh của Mike Kemp, nguồn: http://thenextweb.com
Tức cảnh sinh tình, tại hiện trường ông trả lời báo chí rằng: "Tôi muốn các bạn đòi hỏi các trương mục ngân hàng ngoại quốc phải được mở ra và minh bạch, giống như cách mà tôi bị buộc phải thực hiện sự minh bạch trong ngày hôm nay". 

Cái mặt nạ này cứ theo đà mà lan ra tới các nước độc tài như sự hiện diện của nó trong "Arab Spring" (Mùa xuân A rập). Hình bên dưới chụp ở Ai Cập, người đàn ông đeo mặt nạ thật sự thể hiện gương mặt buồn.

Người biểu tình đứng trước hàng rào quân đội Ai Cập, gần bộ quốc phòng ở quận Abbassiya ,
Cairo 30 /04/2012. (Photo: REUTERS - Mohamed Abd El Ghany) nguồn: http://english.al-akhbar.com).
Còn đây là tại Bahrain, mặc dù giương cao khẩu hiệu " I love Bahrain" nhưng cái mặt nạ này đã bị chính phủ nước này cấm từ năm ngoái.

Cuộc biểu tình chống chính phủ được nhóm đối lập Al Wefag tổ chức ở Salmabad, nam Manama
vào ngày 5/02/2013. ảnh Reuters / Stringer. Nguồn: http://rt.com)
Sau Ả rập là tới Trung Đông, dân Thổ Nhĩ Kỳ cũng biểu tình khắp cả nước để chống chính phủ. Ảnh dưới ghi lại khảnh khắc vui vẻ của một nhóm thanh niên đang chụp hình  lưu niệm với mặt nạ Guy Fawkes.

Hình chụp tại quảng trường Taksim ở Istanbul ngài 1/06/ 2013.
Ảnh:Murad Sezer/Reuters. (Nguồn: http://darkroom.baltimoresun.com)
Gần Việt nam nhất là Thái Lan vào năm ngoái, dân chúng đổ ra đường đòi thủ tướng đương nhiệm là Shinawatra từ chức do bê bối liên quan tới ông anh là cựu thủ tướng Thaksin và tham nhũng.

Cuộc biểu tình khởi đầu tại trung tâm mua sắm Bangkok vào ngày 2/06/2013 và lan ra toàn Thái Lan
(nguồn: http://www.voanews.com/content/thailand-protesters-latest-do-don-guy-fawkes-masks/1673965.html)
Một điều khá mỉa mai trong cuộc biểu tình ở Thái Lan là phe ủng hộ hoàng gia lại đeo mặt nạ chống lại phe ủng hộ chính phủ đem mặt nạ đi đốt.

Phe áo đỏ (ủng hộ chính phủ) đốt nặt nạ chống lại phe áo vàng (ủng hộ hoàng gia)
Tuy nhiên cần phải nhìn nhận rằng hoàng gia từng đã là một thế lực chính trị lớn ở Thái Lan đang mất dần quyền lực do xã hội dân sự ngày càng lớn mạnh ở quốc gia này. Số lượng người đeo mặt nạ ở Thái lan cũng rất đông đảo để có thể gọi là một phong trào, trái ngược lại với một hình ảnh hiếm hoi và cô độc đến từ Trung Quốc trong hình bên dưới.

Người biểu tình này đang đứng trước tòa báo Phương Nam Tuần San ở Quảng Châu, ngày 08/01/2013.
Dòng biểu ngữ của người này nói rằng: "1,3 tỉ người Trung Quốc có quyền nói tiếng nói của mình mà không cần người đại diện".  Ảnh: AP (nguồn: Free speech protest)
Khi được hỏi về cảm tưởng của ông về cách mà các nhóm khác nhau sử dụng mặt nạ, David Lloyd nói: "Tất cả đều có chương trình nghị sự khác nhau... Điều quan trọng là mặt nạ được sử dụng ở mức độ phổ biến rộng rãi bởi nhiều người, tất cả các mục đích của họ đều nhằm tới việc kháng cự lại chế độ độc tài, thậm chí là độc tài trong nhận thức. Đó là điều quan trọng nhất về ý nghĩa của mặt nạ" (theo: http://www.ibtimes.com). Nhận xét chí lý và đầy tính dự phóng của cha đẻ cái mặt nạ đã vô hình chung xác định vai trò chính trị của biểu tượng: mặt nạ Guy Fawkes đang sống và đang dự phần vào câu chuyện lịch sử đương đại. Rồi đây lịch sử nhân loại, đặc biệt là lịch sử mỹ thuật thế giới sẽ còn nhắc mãi đến chiếc mặt nạ độc đáo này.




Thursday, 24 April 2014

Mặt nạ BAFTA - Sự lựa chọn độc đáo của người Anh




Bây giờ riêng đối diện tôi 
Còn hai con mắt khóc người một con 

Mắt buồn (Thơ Bùi Giáng)



Tôi trở nên hiếu kỳ về người Anh sau khi xem kiệt tác điện ảnh "Cầu sông Kwai" (xem phim) đâu khoảng chừng 25 năm về trước. Hình ảnh đại tá Colonel Nicholson chết cùng biểu tượng là cây cầu tuyệt tác, được xây dựng nhờ tinh thần Ăng-lê của mình, có chút gì đó vô lý nhưng mọi người buộc phải chấp nhận sự hợp lý của nó. Ẩn dụ này cứ bàng bạc như một nét tính cách chủ đạo trong đa phần những quyết định mà người Anh đóng góp vào việc dẫn dắt thế giới hiện đại của chúng ta.

Mặt nạ BAFTA là một trong rất nhiều ví dụ minh họa cho luận đề trên. Có ai lại ngược ngạo đến mức chọn một cái mặt nạ chột mắt làm biểu tượng cho giải thưởng trong lĩnh vực nghe nhìn danh giá của quốc gia mình? Không lẽ người Anh coi thế giới này mù cả, chỉ có thằng chột xứng đáng là biểu tượng? Nhưng thế giới buộc phải chấp nhận sự có lý trong lựa chọn vô lý này, mặt nạ BAFTA "đã trở thành một biểu tượng xác nhận cho sự xuất sắc trong nghệ thuật thể hiện hình ảnh động, được quốc tế thừa nhận" (theo: www.bafta.org).

The British Academy of Film and Television Arts (BAFTA)
Viện hàn lâm nghệ thuật Phim và Truyền hình Anh Quốc 
Cái mặt nạ này "phức tạp hơn những vẻ ngoài ở mặt trước mà người ta thoạt trông thấy", những biểu tượng ẩn dụ được cố tình thể hiện phía sau.

Mặt trước và sau của mặt nạ (nguồn: bafta award-1980)
Phía sau con mắt lành là hình ảnh cái màn hình còn phía sau con mắt chột là biểu tượng một nguyên tử gồm hạt nhân và điện tử quay xung quanh các quỹ đạo. Đây là ẩn dụ nhằm kết nối giữa kịch nghệ cổ điển và công nghệ điện tử hiện đại của nhà điêu khắc Mitzi Cunliffe tác giả chiếc mặt nạ. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà bên mắt lành là cái màn hình, bởi mắt phải sáng mới thấy được hình ảnh. Còn với điện tử, cho dẫu có mắt cũng không thể thấy, vậy thì đâu cần mắt để làm gì. Điện ảnh cần con mắt của nhận thức hơn là con mắt của "người trần mắt thịt" là vậy. Đến đây mới thấy người Anh có lý, thậm chí là cao siêu, trong lựa chọn của mình.

Ý tưởng để tạo nên chiếc mặt nạ này được gợi từ những phù điêu khắc theo các nguyên  tắc truyền thống của mặt nạ bi hài kịch tại một công trình cộng cộng. Bà Cunliffe nhớ lại: "Tình yêu từ cái nhìn đầu tiên, tôi biết đó là việc mà rồi tôi sẽ dan díu đến", khi bà nhìn thấy những phù điêu ở mặt tây nhà thờ Chartres lần đầu. Chiếc mặt nạ đầu tiên được ông Andrew Miller ủy quyền chế tạo cho Hội những nhà sản xuất và đạo diễn truyền hình vào năm 1955, hình ảnh nguyên thủy được bà Cunliffe tạo bằng chất dẻo, sau đó người ta tạo khuôn dựa trên hình mẫu này để đúc hàng loạt.

Nhà điêu khắc Mitzi Cunliffe và chiếc mặt nạ đầu tiên năm 1955 (nguồn: http://www.bafta.org).
Từ năm 1976, mặt nạ được chế tạo tại lò đúc của New Pro Foundries West Drayton, Middlesex. Viện hàn lâm đã chọn một hợp kim đồng gọi là Phosphor Đồng (PB3) để tạo tông màu đặc biệt cho mặt nạ. Hợp kim được làm nóng đến nhiệt độ 1.090 độ C, sau đó được đổ khuôn, làm nguội và đánh bóng (xem thêm tại: www.afordawards.co.uk). Năm 1976 là năm có ý nghĩa đặc biệt bởi tên Viện hàn lâm nghệ thuật Phim và Truyền hình Anh Quốc (BAFTA) được chính thức gọi sau nhiều lần sáp nhập và thay đổi. Tại lễ khai mạc, hoàng gia đã trao cái mặt nạ BAFTA kiểu mới đầu tiên cho Sir Charles Chaplin vì thành tựu suốt đời của ông (nguồn: history/the-bafta-mask).

Những mặt nạ của năm 2014 đang chờ chủ nhân
"Phim ảnh là sự lừa dối đẹp nhất trên đời" (Jean Luc Godard). Nếu tuân theo tiêu chí "lừa dối" đó, thì mặt nạ có lẽ là vật biểu trưng lý tưởng nhất: che giấu nhưng gợi mở, không có vật dụng nào làm tốt chức năng này hơn. Tính hai mặt của điện ảnh cũng giống như tính hai mặt của mặt nạ. Suy cho cùng, điện ảnh là làm giả nhưng giả chỉ là phương tiện để đạt tới cái thật của chân lý. Mặt nạ cũng thế, không ai coi mặt nạ là thật nhưng nó là tiếng nói thật mà người đeo muốn cất lên.

Mặt mộc ( nguồn: Xem chi tiết quá trình chế tạo)
So với biểu tượng của những giải thưởng điện ảnh khác, mặt nạ BAFTA độc đáo hơn do khả năng gợi mở của nó. Mặt nạ BAFTA gợi sự liên tưởng tới chân dung thật của những nghệ sĩ từng được sở hữu chúng trong một triển lãm ảnh chân dung có tên Behide The Masks (Đằng sau những chiếc mặt nạ), do nhiếp ảnh gia Andy Gotts thực hiện, được trưng bày lần đầu trong mua giải này (nguồn: bafta and andy gotts). "Tôi chuyên nghiên cứu đặc điểm của khuôn mặt và cố gắng thể hiện sự mới lạ và đặc biệt của những khuôn mặt nổi tiếng thế giới ở một phía khác, theo phong cách "không che dấu khuyết tật" (warts and all) của tôi" Andy Gotts nói.

Robert de Niro trong bích chương của triển lãm
Trong một góc nhìn khác thiên về Behide the Sence (Đằng sau hậu trường), họa sĩ Adam Simpson, lại thấy cả một hậu trường với tất cả các công đoạn và bếp núc điện ảnh phía sau chiếc mặt nạ (xem thêm: Bafta Awards Mask artwork).
Thiết kế của họa sĩ Adam Simpson được dùng để thể hiện lên thiệp mời cho đêm dự giải thường niên.
Điểm đặc biệt trong tính cách hài hước của người Anh là dựa trên sự mỉa mai. Có vẻ như họ đã và đang cười nhạo thế giới điện ảnh; vốn được phát minh từ chính những người con của họ; bằng cái mặt nạ này. Người ta đeo mặt nạ cho từng cá nhân, người Anh đeo mặt nạ cho một nền công nghiệp.