"Ta đến từ đâu?" có lẽ là một tự vấn vĩ đại của nhân loại. Cho dẫu thuyết Big Bang chứng minh rõ ràng sự hình thành vũ trụ, thuyết Tiến hóa chứng minh ngồn gốc của con người, nhân loại vẫn không thôi soi mình trong truyền thuyết để xác quyết những tín điều tâm linh. Sáng thế là huyền thoại căn bản nhất đễ xác định một dân tộc thật sự có tư duy và đây thật sự là một huyền thoại phong phú với rất nhiều dị bản trên trái đất này.
Dân tộc Dao không là ngoại lệ, họ chọn câu chuyện sáng thế của mình theo huyền sử Trung Hoa. Điều này cũng dễ hiểu vì người Dao có nguồn gốc từ nam Trung Quốc, họ di cư và mang theo trong ký ức những câu chuyện về thủy tổ từ truyền thuyết Trung Hoa cổ xưa.
Bàn cổ (Pangu)
dịch nghĩa thoát ra là "Vỏ trứng/phiến đá cổ", ông được coi và vị thần khai thiên lập địa và sáng tạo ra vũ trụ trong thần thoại Trung Quốc.
|
NguyênThủy Thiên Tôn (phải) và Bàn cổ (trái). Hình Bàn Cổ được lấy từ: Wang Qi và Wang Erbin comps., Sancai Tuhui, Jinchang Baohanlu Kanben, 1609, lưu trữ tại thư viện của viện Văn học thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc. |
Theo Đạo giáo, thuở sơ khai chưa có trời đất, trước cả hỗn
mang, chỉ mới có cái nguyên khí huyền bí, có vị gọi là
Nguyên Thuỷ Thiên Vương (Nguyên Thuỷ nghĩa là cái gốc đầu tiên). Lúc này Nguyên Thuỷ Thiên Vương chưa phải hẳn là
vị thần, mà chỉ là nguyên lý sơ khai. Khi hình thành thái cực
rồi lưỡng nghi, có Âm Dương,
thì thể chất của Nguyên Thuỷ Thiên Vương ngưng kết thành Bàn Cổ tạo ra trời đất, và linh thể trở thành
Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, là bậc tối
cao vô thượng của cả vũ trụ. Bàn Cổ sau khi tạo lập vũ trụ thì chết đi, nhưng linh thể Thiên Tôn thì
tồn tại mãi mãi. Như thế Nguyên Thuỷ Thiên Vương, Nguyên Thuỷ Thiên Tôn và Bàn
Cổ tuy ba nhưng chỉ một mà thôi.
"Theo Tam Hoàng Thiên Kinh, sự tích Bàn Cổ như sau: Tại núi Côn Lôn có một cục đá lớn đã thọ khí Âm Dương chiếu diệu rất
lâu đời, nên đã thâu được các tánh linh thông của vũ trụ mà tạo thành
thai người. Sau 10 tháng 16 ngày, đúng giờ Dần, một tiếng nổ vang, khối đá linh
ấy nứt ra, sản xuất một vị Linh Chơn hy hữu, một con người đầu tiên của
thế gian, được gọi là Bàn Cổ
Vừa sanh ra thì vị ấy tập đi, tập chạy, tập nhảy, hớp gió nuốt sương,
ăn hoa quả, lần lần lớn lên, mình cao trăm thước, đầu như rồng, có lông
đầy mình, sức mạnh vô cùng. Một ngày kia, Bàn Cổ chạy qua hướng Tây, bắt gặp một cái búa và một
cái dùi ước đặng ngàn cân. Bàn Cổ, tay phải cầm búa, tay trái cầm dùi,
ra sức mở mang cõi trần.
Thuở đó Trời Ðất còn mờ mịt. Ngài ước cho phân biệt Trời Ðất thì nhơn
vật mới hóa sanh được. Ngài ao ước vừa dứt tiếng thì sấm nổ vang, Thiên
thanh, Ðịa ninh, vạn vật sinh ra đều có đủ cả.
Ngài liền chỉ Trời là Cha, chỉ Ðất là Mẹ, muôn dân là con. Ngài chính
là tôn chủ sáng lập thế gian, nên cũng gọi Ngài là Thái Thượng Ðạo
Quân. Ngài tự xưng là Thiên tử, tức là con Trời, cai trị muôn dân. Ngài là
vị vua đầu tiên của cõi thế gian nên gọi Ngài là Hỗn Độn thị. Bàn Cổ thọ được 18.000 tuổi rồi qui Thiên"...
Nhiệm Phưởng, thế kỷ 6, đã viết huyền thoại Bàn Cổ trong quyển Thuật Dị Ký rằng:
- "Ngày xưa khi Bàn Cổ chết, đầu biến thành bốn ngọn núi, hai mắt
biến thành mặt trời và Mặt Trăng, mỡ biến thành sông biển, râu tóc biến
thành thảo mộc. Thời Tần và Hán, dân gian kể rằng đầu của Bàn Cổ là Đông
Nhạc, bụng là Trung Nhạc, tay trái là Nam Nhạc, tay phải là Bắc Nhạc,
và hai chân là Tây Nhạc. Các văn nhân ngày xưa kể rằng nước mắt của Bàn
Cổ là sông, hơi thở là gió, giọng nói là sấm, đồng tử trong mắt là ánh
sáng."
Bàn cổ được phóng chiếu trong tín ngưỡng của người Dao qua hình ảnh của mặt nạ. Ngôn ngữ của người Dao đọc là mặt nạ "Sán Cô". Trong truyền thuyết Trung Hoa hình ảnh Bàn Cổ oai hùng là vậy, nhưng với người Dao cách trình diễn mặt nạ lại mang vẻ phồn thực hơn nhiều.
|
Cái mặt nạ "Sán Cô" đầu tiên của tôi |
Mặt nạ "Sán cô"
là loại mặt nạ nghi lễ được làm từ gỗ sung, hình dạng mặt người nhưng mắt sâu và răng to một cách kỳ dị. Trong bộ sưu tập của tôi có ba kiểu chế tạo, một kiểu mặt được phủ toàn bộ bằng giấy bồi, râu và tóc là những tua giấy nhuộm màu như hình ảnh bên trên và dưới đây.
|
Mặt sau và nhìn nghiêng |
Một kiểu khác là mặt trơn hoàn toàn, trên mặt có khắc lõm những đường vằn vện, như thể đó là hình ảnh cách điệu của râu, lông và tóc.
|
Mặt nạ Sán Cô trơn |
Khuôn mặt này được chạm khắc khá tinh xảo, kiểu khắc tỉ mỉ như thế này rất ít thấy ở mặt nạ của dân tộc thiểu số bởi vì dụng cụ khắc của họ thường rất thô sơ.
|
Phải, giữa và trái |
Một kiểu khác được chế tạo bằng cách hun khói mặt nạ sau khi đã chạm khắc, râu và tóc là những miếng da động vật vẫn còn nguyên lông được gắn thêm vào.
|
Mặt nạ bàn cổ trơn |
Cái mặt này được làm rất công phu, nghệ nhân chắc hẳn đã dụng công nhiều lắm để làm cho khuôn mặt có hình dáng lập thể với những đường vát gãy gọn và mạnh mẽ.
|
Các góc nhìn và chi tiết |
|
Góc nhìn nghiêng |
Râu và tóc của mặt nạ bên trên được làm từ lông dê: dài và cứng. Trong khi đó râu, tóc của mặt nạ bên dưới đây là từ lông chồn: ngắn và mềm.
|
Mặt nạ Sán Cô phủ lông chồn |
Cái mặt nhìn rất dữ, khuôn mặt gầm gừ mang trạng thái kích động dữ dội. Mắt xếch trợn ngược lên trong khi nanh lòi ra chừng như muốn ăn gan uống máu kẻ thù. Lớp lông được phủ gần đầy khuôn mặt làm tăng thêm cái vẻ hoang dã của mặt nạ, tôi chưa bắt gặp cái mặt nạ nào khác có kiểu trang trí tương tự như vậy.
|
Chi tiết lông trên mặt |
Điểm chung nhất của tất cả các mặt nạ trên là chúng đều có một cái sừng, có lẽ đây là hình ảnh đặc trưng của mặt nạ Bàn Cổ. Bàn Cổ được mô tả lần đầu bởi Wuyun Linianji, ông mô tả Bàn Cổ có đầu rồng mình rắn (serpent), trong một vài dị bản khác Bàn Cổ có đầu mèo, mình rắn, móng cọp. Sở dĩ Bàn Cổ có hình dạng kỳ dị như vậy là do năng lực siêu nhiên của vị thần này. Tuy nhiên, trong hình chân dung hay trong tượng thờ, Bàn Cổ được miêu tả là người khổng lồ với
một cái sừng ở trên đầu (Theo Hand-book of Chinese Mythology, tác giả Lihui Yang và Deming An, trang 178).
Truyền thuyết của người dân ở đảo Hải Nam cho một giải thích về nguồn gốc của cái sừng này. Thuở ấy loài người ai cũng có sừng, ngoài là vũ khí để săn mồi, sừng có chức năng quan trọng hơn, nó là chỉ dấu cho cái chết của một người. Khi người ta chết đi, sừng sẽ bị mềm và biến mất. Trong cuộc sống thường nhật, con người phải làm công việc săn mồi rất cực nhọc, khi một người cảm nhận thấy cái sừng của mình mềm đi, người ta mới dừng lại, nghỉ ngơi và chờ chết. Một thời gian sau đó, trên thế gian xuất hiện rất nhiều người có sừng mềm và mất đi, chứng tỏ họ không làm việc gì cả. Điều này làm Thượng Đế nổi giận, ông sai linh xuống trần gian lấy lại sừng của con người. Từ đó trở đi, con người không còn sừng nữa và họ phải cực nhọc hơn để kiếm sống. Duy chỉ có thần Bàn Cổ là hãy còn sừng mà thôi.(
Theo Hand-book of Chinese Mythology, tác giả Lihui Yang và Deminh An, trang 178-179).
Mặt nạ Bàn Cổ một sừng rất phổ biến, nhưng mặt nạ hai sừng không phải không tồn tại. Bên dưới là một cái mặt nạ Bàn Cổ hai sừng trong sưu tập của tôi.
|
Mặt nạ Bàn Cổ hai sừng |
Có lẽ hình ảnh của thần Bàn Cổ được diễn giải không giống nhau, tùy thuộc vào quan niệm của từng tộc người. Trong sách
"Myth and Legend of China", tác giả E.T.C Werner, trang 77, Bàn Cổ được mô tả hoàn toàn trái ngược sách trên:" Bàn Cổ có vóc người nhỏ thó, phục trang bằng da gấu hay lá cây kết lại hay là quấn quanh người một cái tơi bằng lá.
Ông có hai cái sừng trên trán. Tay phải cầm búa, tay trái cầm đục (đôi khi là ngược lại), đây là những dụng cụ duy nhất được ông dùng để thực hiện nhiệm vụ vĩ đại của mình"
|
Hình Bàn Cổ theo mô tả của sách Myth and Legend of China |
Hình ảnh Bàn Cổ và mặt nạ hai sừng bên trên gợi cho tôi một liên tưởng với hai cái mặt nạ tôi sưu tầm trong những dịp rất khác nhau trước đây.
Đây là cái mặt nạ gợi một niềm hứng khởi đặc biệt cho tôi, chính nó thúc giục tôi đào sâu và quan tâm tới thú sưu tập của mình một cách có hệ thống.
|
Mặt nạ Pangu bằng giấy |
Tôi sưu tập được cái mặt nạ này tại thị xã Sapa một đêm hè năm 2005, cái mặt nạ này được làm bằng giấy bồi, bề mặt ngoài được phủ vật liệu tựa như sơn mài và khuôn mặt loang lổ những mảng màu nhũ kim rất đặc biệt. Dường như cái mặt nạ này thuộc về tôi như một định mệnh, tôi thoáng thấy nó khi xe đi qua, khi trở về khách sạn tôi không thể nào ngủ được, bước chân vô định trong một nơi không quen đã khiến tôi quay lại cửa hàng bán đồ cổ bên một con dốc. Tôi có cái mặt nạ duyên nợ của mình.
Cái mặt nạ bằng gỗ bên dưới này tôi sưu tập được tại Malaca cách đây hai năm, cái cửa hàng này có một góc nhỏ trưng bày những mặt nạ có nguồn gốc từ Vân Nam của Tung Quốc.
|
Mặt nạ Pangu Trung Quốc |
Cho dù có nguồn gốc địa lý khác nhau hay được tạo tác bằng những vật liệu khác nhau, các mặt nạ này có đặc điểm chung không thể nhầm lẫn là hai cái sừng. Rõ ràng Pangu hai sừng là huyền thoại có thật.
Cứ theo chứng cứ là những mặt nạ mà tôi sưu tầm được, có thể đặt ra một giả thuyết rằng có hai ngành Dao khác nhau di cư vào Việt Nam, một từ đảo Hải Nam qua mang theo hình ảnh Bàn Cổ một sừng, một từ nam Trung Quốc xuống với hình ảnh Bàn Cổ hai sừng trong tín ngưỡng. Tai sao không? Có huyền sử nào không chứa một phần sự thật.
|
Một cái mặt nạ Bàn Cổ hai sừng khác |
Người Dao sử dụng mặt nạ Sán Cô trong nhiều nghi lễ, mục đích để đuổi tà ma, bảo vệ đàn cúng và vong linh người chết. Có hai nghi lễ không thể thiếu mặt nạ Sán Cô là lễ cầu mưa (Bung lổ) và lễ cấp sắc (Lập Tịch) của người Dao Họ.
Theo mô tả cuả tác giả Đào Minh: "Vào khoảng giờ Thìn
ngày thứ nhất của lễ “Bung Lổ”, thầy Tam nguyên cùng đồ đệ đánh chiêng, gõ
trống múa nghi lễ tiến vào ngõ chủ nhà làm lễ. Đi đầu là một thầy Tam nguyên
mặc áo đỏ, tay cầm đao gỗ; một thầy phụ mặc áo vàng, tay cầm kiếm gỗ vừa đi vừa
múa theo điệu mở đường. Tiếp theo là hai người múa “vạn pù” cầm dải vải có tua
múa theo điệu “trừ tà”. Người đeo mặt nạ là ông"sán cô" tượng
trưng cho người khai thiên lập địa, múa các điệu mang tính chất vui hoặc mang
tính phồn thực làm động tác giao cấu với đất trời. Đi giữa là một thầy cầm sách
và kiếm phép, cái lanh, “lệnh bài”, theo sau là một vài học trò (nguồn http://www.baoyenbai.com.vn/26/71382/Le_hoi_Bung_Lo_cua_nguoi_Dao_Ho.htm)
|
Thầy mo mang mặt nạ Sán Cô bảo vệ thầy Tam Nguyên cùng đồ đệ, ảnh: Phạm Công Hoan |
Theo Từ điển hiện vật văn hóa các dân tộc Việt Nam, tác giả Nguyễn văn Huy, xuất bản năm 2007:
"Người múa mặt nạ Sán Cô là đàn ông, họ mặc quần áo thầy cúng, một tay lắc chuông, một tay cầm kiếm gỗ, đi đầu đám rước và làm các động tác trêu ghẹo phụ nữ mang ý nghĩa phồn thực và xua đổi tà ma."
Trong lể Cấp Sắc, mặt nạ Sán Cô xuất hiện hai lần, lần đầu ở lễ Đón thầy với các nghi lễ gần như tương tự lễ cầu mưa được mô tả bên trên. Sau các nghi lễ được tổ chức trong nhà, đến lúc các thầy cúng dẫn người được cấp sắc tới bàn địa đặt ở ngoài trời, đây là nơi mà người được cấp sắc sau khi được thụ phong trở về lại cuộc sống bình thường, lúc này mặt nạ Sán Cô lại xuất hiện một lần nữa:
"Vào khoảng gà gáy canh hai,
các thầy cúng dấn người lập tịch đi vòng quanh lán ba lần và đi ra nơi đặt bàn
địa. Đội hình gồm có: Đi đầu là thầy phụ Tam nguyên mặc áo đỏ cầm hai kiếm vừa
đi vừa múa kiếm mở đường. Đi thứ hai là thầy phụ Tam thanh mặc áo đen, vừa đi
vừa múa lệnh bài lanh. Người đi thứ ba đeo
mặt nạ 'Sán Cô' vừa đi vừa múa các động tác mang tính chất phồn thực, tung
đất đá… biểu tượng của ông Sán cô- người khổng lồ có công tạo ra vũ trụ, muôn
loài..."(Theo: http://www.laocai.gov.vn/timhieulaocai/dulich/phongtuclehoi/Trang/634046196976074190.aspx)
|
Thầy cúng đeo mặt nạ Sán Cô trên đường ra Ngũ Đài trong lễ Cấp Sắc, ảnh: Phạm Công Hoan |
Điều rất đặc biệt là mặt nạ Sán Cô chỉ xuất hiện ở những hoạt động ngoài trời, không bao giờ Sán Cô xuất hiện trong nhà. Phải chăng điều này phản ánh quan niệm của người Dao về nguồn gốc hoang dã của vị thần này? Rõ ràng phục sức của ông thầy cúng này cũng rất "bụi bặm", áo bằng vải nâu thô, không khuy nút, chỉ buộc ngang thắt lưng một sợi dây. Hình ảnh của ông thầy này trái ngược hẳn với "mũ cao áo dài" của các thầy Tam Nguyên hay Tam Thanh trong không gian của cùng một lễ cấp sắc.
|
Bàn cổ mặt phồn thực |
Có lẽ mặt nạ bên trên nhìn thấy hiền nhất trong bộ sưu tập của tôi. Khuôn mặt này ít nhiều có biểu lộ tính chất phồn thực, mặt dạng tròn, đầy đặn, râu tóc lưa thưa từa tựa như khôn mặt "dê" của người mình. Có lẽ những điệu múa mang tính phồn thực trong buổi lễ của thầy đeo mặt nạ cũng xuất phát từ quan niệm của người Dao về chức năng sản sinh ra vạn vật của vị thần tối cao này.
Dưới đây là một mặt nạ khác, hãy chú ý tới kiểu tạo tác mắt mặt nạ, mắt không phải là một lỗ rỗng mà có một đường nối tạo nên cái tròng. Chính cái "tròng" này làm mắt sinh động và có hồn hẳn lên. cái tròng còn làm giảm thị lực của người đeo mặt nạ, làm cho cái nhìn của họ bị mờ đi và vị vậy dễ "nhập vai" hơn thông thường.
|
Mặt nạ Pangu có kiểu tạo tác mắt đặc biệt, mắt nhìn từ phía trước và sau mặt nạ |
Tôi không thôi trăn trở với câu hỏi tại sao người Dao; mà không phải người Hoa hay người Việt; lại làm mặt nạ Bàn Cổ? Người Dao cổ muốn gởi "thông điệp" gì qua mặt nạ này? Tôi đồ rằng họ cần một sức mạnh thần quyền chính nghĩa để đối phó lại với các thế lực ma quỷ hắc ám trong cuộc sống nơi miền sơn cước hoang dã cũng như trong các cuộc thiên di, và Bàn Cổ là một lựa chọn sẵn có tuyệt vời.