Tuesday, 24 September 2013

Mặt nạ "Sán Cô" và truyền thuyết sáng thế của người Dao


"Ta đến từ đâu?" có lẽ là một tự vấn vĩ đại của nhân loại. Cho dẫu thuyết Big Bang chứng minh rõ ràng sự hình thành vũ trụ, thuyết Tiến hóa chứng minh ngồn gốc của con người, nhân loại vẫn không thôi soi mình trong truyền thuyết để xác quyết những tín điều tâm linh. Sáng thế là huyền thoại căn bản nhất đễ xác định một dân tộc thật sự có tư duy và đây thật sự là một huyền thoại phong phú với rất nhiều dị bản trên trái đất này.

Dân tộc Dao không là ngoại lệ, họ chọn câu chuyện sáng thế của mình theo huyền sử Trung Hoa. Điều này cũng dễ hiểu vì người Dao có nguồn gốc từ nam Trung Quốc, họ di cư và mang theo trong ký ức những câu chuyện về thủy tổ từ truyền thuyết Trung Hoa cổ xưa.

Bàn cổ (Pangu) dịch nghĩa thoát ra là "Vỏ trứng/phiến đá cổ", ông được coi và vị thần khai thiên lập địa và sáng tạo ra vũ trụ trong thần thoại Trung Quốc.

NguyênThủy Thiên Tôn (phải) và Bàn cổ (trái). Hình Bàn Cổ được lấy từ: Wang Qi và Wang Erbin comps., Sancai Tuhui, Jinchang Baohanlu Kanben, 1609, lưu trữ tại thư viện của viện Văn học thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc.
Theo Đạo giáo, thuở sơ khai chưa có trời đất, trước cả hỗn mang, chỉ mới có cái nguyên khí huyền bí, có vị gọi là Nguyên Thuỷ Thiên Vương (Nguyên Thuỷ nghĩa là cái gốc đầu tiên). Lúc này Nguyên Thuỷ Thiên Vương chưa phải hẳn là vị thần, mà chỉ là nguyên lý sơ khai. Khi hình thành thái cực rồi lưỡng nghi, có Âm Dương, thì thể chất của Nguyên Thuỷ Thiên Vương ngưng kết thành Bàn Cổ tạo ra trời đất, và linh thể trở thành Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, là bậc tối cao vô thượng của cả vũ trụ. Bàn Cổ sau khi tạo lập vũ trụ thì chết đi, nhưng linh thể Thiên Tôn thì tồn tại mãi mãi. Như thế Nguyên Thuỷ Thiên Vương, Nguyên Thuỷ Thiên Tôn và Bàn Cổ tuy ba nhưng chỉ một mà thôi.

"Theo Tam Hoàng Thiên Kinh, sự tích Bàn Cổ như sau: Tại núi Côn Lôn có một cục đá lớn đã thọ khí Âm Dương chiếu diệu rất lâu đời, nên đã thâu được các tánh linh thông của vũ trụ mà tạo thành thai người. Sau 10 tháng 16 ngày, đúng giờ Dần, một tiếng nổ vang, khối đá linh ấy nứt ra, sản xuất một vị Linh Chơn hy hữu, một con người đầu tiên của thế gian, được gọi là Bàn Cổ

Vừa sanh ra thì vị ấy tập đi, tập chạy, tập nhảy, hớp gió nuốt sương, ăn hoa quả, lần lần lớn lên, mình cao trăm thước, đầu như rồng, có lông đầy mình, sức mạnh vô cùng. Một ngày kia, Bàn Cổ chạy qua hướng Tây, bắt gặp một cái búa và một cái dùi ước đặng ngàn cân. Bàn Cổ, tay phải cầm búa, tay trái cầm dùi, ra sức mở mang cõi trần. 

Thuở đó Trời Ðất còn mờ mịt. Ngài ước cho phân biệt Trời Ðất thì nhơn vật mới hóa sanh được. Ngài ao ước vừa dứt tiếng thì sấm nổ vang, Thiên thanh, Ðịa ninh, vạn vật sinh ra đều có đủ cả.

Ngài liền chỉ Trời là Cha, chỉ Ðất là Mẹ, muôn dân là con. Ngài chính là tôn chủ sáng lập thế gian, nên cũng gọi Ngài là Thái Thượng Ðạo Quân. Ngài tự xưng là Thiên tử, tức là con Trời, cai trị muôn dân. Ngài là vị vua đầu tiên của cõi thế gian nên gọi Ngài là Hỗn Độn thị. Bàn Cổ thọ được 18.000 tuổi rồi qui Thiên"...

Nhiệm Phưởng, thế kỷ 6, đã viết huyền thoại Bàn Cổ trong quyển Thuật Dị Ký rằng:
"Ngày xưa khi Bàn Cổ chết, đầu biến thành bốn ngọn núi, hai mắt biến thành mặt trời và Mặt Trăng, mỡ biến thành sông biển, râu tóc biến thành thảo mộc. Thời Tần và Hán, dân gian kể rằng đầu của Bàn Cổ là Đông Nhạc, bụng là Trung Nhạc, tay trái là Nam Nhạc, tay phải là Bắc Nhạc, và hai chân là Tây Nhạc. Các văn nhân ngày xưa kể rằng nước mắt của Bàn Cổ là sông, hơi thở là gió, giọng nói là sấm, đồng tử trong mắt là ánh sáng."

Bàn cổ được phóng chiếu trong tín ngưỡng của người Dao qua hình ảnh của mặt nạ. Ngôn ngữ của người Dao đọc là mặt nạ "Sán Cô". Trong truyền thuyết Trung Hoa hình ảnh Bàn Cổ oai hùng là vậy, nhưng với người Dao cách trình diễn mặt nạ lại mang vẻ phồn thực hơn nhiều.

Cái mặt nạ "Sán Cô" đầu tiên của tôi
Mặt nạ "Sán cô" là loại mặt nạ nghi lễ được làm từ gỗ sung, hình dạng mặt người nhưng mắt sâu và răng to một cách kỳ dị. Trong bộ sưu tập của tôi có ba kiểu chế tạo, một kiểu mặt được phủ toàn bộ bằng giấy bồi, râu và tóc là những tua giấy nhuộm màu như hình ảnh bên trên và dưới đây.

Mặt sau và nhìn nghiêng
Một kiểu khác là mặt trơn hoàn toàn, trên mặt có khắc lõm những đường vằn vện, như thể đó là hình ảnh cách điệu của râu, lông và tóc.

Mặt nạ Sán Cô trơn
Khuôn mặt này được chạm khắc khá tinh xảo, kiểu khắc tỉ mỉ như thế này rất ít thấy ở mặt nạ của dân tộc thiểu số bởi vì dụng cụ khắc của họ thường rất thô sơ.
Phải, giữa và trái
Một kiểu khác được chế tạo bằng cách hun khói mặt nạ sau khi đã chạm khắc, râu và tóc là những miếng da động vật vẫn còn nguyên lông được gắn thêm vào.
Mặt nạ bàn cổ trơn
Cái mặt này được làm rất công phu, nghệ nhân chắc hẳn đã dụng công nhiều lắm để làm cho khuôn mặt có hình dáng lập thể với những đường vát gãy gọn và mạnh mẽ.

Các góc nhìn và chi tiết
Góc nhìn nghiêng
Râu và tóc của mặt nạ bên trên được làm từ lông dê: dài và cứng. Trong khi đó râu, tóc của mặt nạ bên dưới đây là từ lông chồn: ngắn và mềm.
Mặt nạ Sán Cô phủ lông chồn
Cái mặt nhìn rất dữ, khuôn mặt gầm gừ mang trạng thái kích động dữ dội. Mắt xếch trợn ngược lên trong khi nanh lòi ra chừng như muốn ăn gan uống máu kẻ thù. Lớp lông được phủ gần đầy khuôn mặt làm tăng thêm cái vẻ hoang dã của mặt nạ, tôi chưa bắt gặp cái mặt nạ nào khác có kiểu trang trí tương tự như vậy.

Chi tiết lông trên mặt
Điểm chung nhất của tất cả các mặt nạ trên là chúng đều có một cái sừng, có lẽ đây là hình ảnh đặc trưng của mặt nạ Bàn Cổ. Bàn Cổ được mô tả lần đầu bởi Wuyun Linianji, ông mô tả Bàn Cổ có đầu rồng mình rắn (serpent), trong một vài dị bản khác Bàn Cổ có đầu mèo, mình rắn, móng cọp. Sở dĩ Bàn Cổ có hình dạng kỳ dị như vậy là do năng lực siêu nhiên của vị thần này. Tuy nhiên, trong hình chân dung hay trong tượng thờ, Bàn Cổ được miêu tả là người khổng lồ với một cái sừng ở trên đầu (Theo Hand-book of Chinese Mythology, tác giả Lihui Yang và Deming An, trang 178).

Truyền thuyết của người dân ở đảo Hải Nam cho một giải thích về nguồn gốc của cái sừng này. Thuở ấy loài người ai cũng có sừng, ngoài là vũ khí để săn mồi, sừng có chức năng quan trọng hơn, nó là chỉ dấu cho cái chết của một người. Khi người ta chết đi, sừng sẽ bị mềm và biến mất. Trong cuộc sống thường nhật, con người phải làm công việc săn mồi rất cực nhọc, khi một người cảm nhận thấy cái sừng của mình mềm đi, người ta mới dừng lại, nghỉ ngơi và chờ chết. Một thời gian sau đó, trên thế gian xuất hiện rất nhiều người có sừng mềm và mất đi, chứng tỏ họ không làm việc gì cả. Điều này làm Thượng Đế nổi giận, ông sai linh xuống trần gian lấy lại sừng của con người. Từ đó trở đi, con người không còn sừng nữa và họ phải cực nhọc hơn để kiếm sống. Duy chỉ có thần Bàn Cổ là hãy còn sừng mà thôi.(Theo Hand-book of Chinese Mythology, tác giả Lihui Yang và Deminh An, trang 178-179).

Mặt nạ Bàn Cổ một sừng rất phổ biến, nhưng mặt nạ hai sừng không phải không tồn tại. Bên dưới là một cái mặt nạ Bàn Cổ hai sừng trong sưu tập của tôi.
Mặt nạ Bàn Cổ hai sừng
Có lẽ hình ảnh của thần Bàn Cổ được diễn giải không giống nhau, tùy thuộc vào quan niệm của từng tộc người. Trong sách "Myth and Legend of China", tác giả E.T.C Werner, trang 77, Bàn Cổ được mô tả hoàn toàn trái ngược sách trên:" Bàn Cổ có vóc người nhỏ thó, phục trang bằng da gấu hay lá cây kết lại hay là quấn quanh người một cái tơi bằng lá. Ông có hai cái sừng trên trán. Tay phải cầm búa, tay trái cầm đục (đôi khi là ngược lại), đây là những dụng cụ duy nhất được ông dùng để thực hiện nhiệm vụ vĩ đại của mình"
Hình Bàn Cổ theo mô tả của sách Myth and Legend of China
Hình ảnh Bàn Cổ và mặt nạ hai sừng bên trên gợi cho tôi một liên tưởng với hai cái mặt nạ tôi sưu tầm trong những dịp rất khác nhau trước đây.

Đây là cái mặt nạ gợi một niềm hứng khởi đặc biệt cho tôi, chính nó thúc giục tôi đào sâu và quan tâm tới thú sưu tập của mình một cách có hệ thống.
Mặt nạ Pangu bằng giấy
Tôi sưu tập được cái mặt nạ này tại thị xã Sapa một đêm hè năm 2005, cái mặt nạ này được làm bằng giấy bồi, bề mặt ngoài được phủ vật liệu tựa như sơn mài và khuôn mặt loang lổ những mảng màu nhũ kim rất đặc biệt. Dường như cái mặt nạ này thuộc về tôi như một định mệnh, tôi thoáng thấy nó khi xe đi qua, khi trở về khách sạn tôi không thể nào ngủ được, bước chân vô định trong một nơi không quen đã khiến tôi quay lại cửa hàng bán đồ cổ bên một con dốc. Tôi có cái mặt nạ duyên nợ của mình.

Cái mặt nạ bằng gỗ bên dưới này tôi sưu tập được tại Malaca cách đây hai năm, cái cửa hàng này có một góc nhỏ trưng bày những mặt nạ có nguồn gốc từ Vân Nam của Tung Quốc.
Mặt nạ Pangu Trung Quốc
Cho dù có nguồn gốc địa lý khác nhau hay được tạo tác bằng những vật liệu khác nhau, các mặt nạ này có đặc điểm chung không thể nhầm lẫn là hai cái sừng. Rõ ràng Pangu hai sừng là huyền thoại có thật.

Cứ theo chứng cứ là những mặt nạ mà tôi sưu tầm được, có thể đặt ra một giả thuyết rằng có hai ngành Dao khác nhau  di cư vào Việt Nam, một từ đảo Hải Nam qua mang theo hình ảnh Bàn Cổ một sừng, một từ nam Trung Quốc xuống với hình ảnh Bàn Cổ hai sừng trong tín ngưỡng. Tai sao không? Có huyền sử nào không chứa một phần sự thật.
Một cái mặt nạ Bàn Cổ hai sừng khác

Người Dao sử dụng mặt nạ Sán Cô trong nhiều nghi lễ, mục đích để đuổi tà ma, bảo vệ đàn cúng và vong linh người chết. Có hai nghi lễ không thể thiếu mặt nạ Sán Cô là lễ cầu mưa (Bung lổ) và lễ cấp sắc (Lập Tịch) của người Dao Họ.

Theo mô tả cuả tác giả Đào Minh: "Vào khoảng giờ Thìn ngày thứ nhất của lễ “Bung Lổ”, thầy Tam nguyên cùng đồ đệ đánh chiêng, gõ trống múa nghi lễ tiến vào ngõ chủ nhà làm lễ. Đi đầu là một thầy Tam nguyên mặc áo đỏ, tay cầm đao gỗ; một thầy phụ mặc áo vàng, tay cầm kiếm gỗ vừa đi vừa múa theo điệu mở đường. Tiếp theo là hai người múa “vạn pù” cầm dải vải có tua múa theo điệu “trừ tà”. Người đeo mặt nạ là ông"sán cô" tượng trưng cho người khai thiên lập địa, múa các điệu mang tính chất vui hoặc mang tính phồn thực làm động tác giao cấu với đất trời. Đi giữa là một thầy cầm sách và kiếm phép, cái lanh, “lệnh bài”, theo sau là một vài học trò (nguồn http://www.baoyenbai.com.vn/26/71382/Le_hoi_Bung_Lo_cua_nguoi_Dao_Ho.htm)

Thầy mo mang mặt nạ Sán Cô bảo vệ thầy Tam Nguyên cùng đồ đệ, ảnh: Phạm Công Hoan
Theo Từ điển hiện vật văn hóa các dân tộc Việt Nam, tác giả Nguyễn văn Huy, xuất bản năm 2007: "Người múa mặt nạ Sán Cô là đàn ông, họ mặc quần áo thầy cúng, một tay lắc chuông, một tay cầm kiếm gỗ, đi đầu đám rước và làm các động tác trêu ghẹo phụ nữ mang ý nghĩa phồn thực và xua đổi tà ma." 

Trong lể Cấp Sắc, mặt nạ Sán Cô xuất hiện hai lần, lần đầu ở lễ Đón thầy với các nghi lễ gần như tương tự lễ cầu mưa được mô tả bên trên. Sau các nghi lễ được tổ chức trong nhà, đến lúc các thầy cúng dẫn người được cấp sắc tới bàn địa đặt ở ngoài trời, đây là nơi mà người được cấp sắc sau khi được thụ phong trở về lại cuộc sống bình thường, lúc này mặt nạ Sán Cô lại xuất hiện một lần nữa:


"Vào khoảng gà gáy canh hai, các thầy cúng dấn người lập tịch đi vòng quanh lán ba lần và đi ra nơi đặt bàn địa. Đội hình gồm có: Đi đầu là thầy phụ Tam nguyên mặc áo đỏ cầm hai kiếm vừa đi vừa múa kiếm mở đường. Đi thứ hai là thầy phụ Tam thanh mặc áo đen, vừa đi vừa múa lệnh bài lanh. Người đi thứ ba đeo mặt nạ 'Sán Cô' vừa đi vừa múa các động tác mang tính chất phồn thực, tung đất đá… biểu tượng của ông Sán cô- người khổng lồ có công tạo ra vũ trụ, muôn loài..."(Theohttp://www.laocai.gov.vn/timhieulaocai/dulich/phongtuclehoi/Trang/634046196976074190.aspx)


Thầy cúng đeo mặt nạ Sán Cô trên đường ra Ngũ Đài trong lễ Cấp Sắc, ảnh: Phạm Công Hoan
Điều rất đặc biệt là mặt nạ Sán Cô chỉ xuất hiện ở những hoạt động ngoài trời, không bao giờ Sán Cô xuất hiện trong nhà. Phải chăng điều này phản ánh quan niệm của người Dao về nguồn gốc hoang dã của vị thần này? Rõ ràng phục sức của ông thầy cúng này cũng rất "bụi bặm", áo bằng vải nâu thô, không khuy nút, chỉ buộc ngang thắt lưng một sợi dây. Hình ảnh của ông thầy này trái ngược hẳn với "mũ cao áo dài" của các thầy Tam Nguyên hay Tam Thanh trong không gian của cùng một lễ cấp sắc.
Bàn cổ mặt phồn thực
Có lẽ mặt nạ bên trên nhìn thấy hiền nhất trong bộ sưu tập của tôi. Khuôn mặt này ít nhiều có biểu lộ tính chất phồn thực, mặt dạng tròn, đầy đặn, râu tóc lưa thưa từa tựa như khôn mặt "dê" của người mình. Có lẽ những điệu múa mang tính phồn thực trong buổi lễ của thầy đeo mặt nạ cũng xuất phát từ quan niệm của người Dao về chức năng sản sinh ra vạn vật của vị thần tối cao này.

Dưới đây là một mặt nạ khác, hãy chú ý tới  kiểu tạo tác mắt mặt nạ, mắt không phải là một lỗ rỗng mà có một đường nối tạo nên cái tròng. Chính cái "tròng" này làm mắt sinh động và có hồn hẳn lên. cái tròng còn làm giảm thị lực của người đeo mặt nạ, làm cho cái nhìn của họ bị mờ đi và vị vậy dễ "nhập vai" hơn thông thường.
Mặt nạ Pangu có kiểu tạo tác mắt đặc biệt, mắt nhìn từ phía trước và sau mặt nạ
Tôi không thôi trăn trở với câu hỏi tại sao người Dao; mà không phải người Hoa hay người Việt; lại làm mặt nạ Bàn Cổ? Người Dao cổ muốn gởi "thông điệp" gì qua mặt nạ này? Tôi đồ rằng họ cần một sức mạnh thần quyền chính nghĩa để đối phó lại với các thế lực ma quỷ hắc ám trong cuộc sống nơi miền sơn cước hoang dã cũng như trong các cuộc thiên di, và Bàn Cổ là một lựa chọn sẵn có tuyệt vời.

Saturday, 7 September 2013

Một chút về nghệ thuật vẽ mặt nạ Kinh kịch


Một chút nói đầu: Mới chiều nay thôi, tại nhà sách Nguyễn Huệ, tôi gặp chuyện cười muốn mếu. Tôi kiếm được cuốn Kinh Kịch Trung Quốc trong khu vục bán kinh sách! Cô bán sách còn khẳng định rất lịch sự với tôi rằng không có kinh gì tên là kinh Kịch cả. Cha mẹ ơi! Thưa cô, "Kinh" là Bắc Kinh còn kịch là đóng kịch ấy. À há... Ừ hứ... tôi có được "Kinh Kịch Trung Quốc" trong lộn xộn những thứ kinh, Kinh Thánh, Kinh Phật, Kinh Thi, Kinh Dịch... và Kinh Khủng. Khủng (hoảng) cho cái văn hóa nước mình!

Xin giới thiệu với quý vị một cuốn sách đẹp, chỉn chu không quá chuyên môn cũng không sơ lược, đủ cho những người ngoại đạo hiểu đầy đủ về Kinh kịch. Chi tiết về tác giả, dịch giả và Lời nói đầu xin xem ở đây: http://nxbhcm.com.vn/Chi-tiet-sach/1225/kinh-kich-trung-quoc.aspx
Bìa cuốn sách

Tôi vốn là dân amateur, chỉ vì mặt nạ mà lạc vô một góc nhỏ trong khu vườn kịch nghệ là Kinh kịch. Muốn tìm hiểu về mặt nạ trong bộ môn này cho ngọn ngành thấu đáo, thật sự không biết tìm nơi đâu. May mà có internet và một chút tiếng Anh (không chuyên ngành) nên học hỏi được ít nhiều vì thế mà vỡ vạc ra cũng lắm. Tự nhận thấy khu vườn này với phần lớn người Việt còn hoang quá, nên cố gắng làm trách nhiệm của một công dân mạng mà truyền bá những kiến thức lượm lặt được bằng cách tổng hợp kiến thức chỗ này chỗ nọ rồi nói bằng tiếng nước mình. Có rất nhiều từ chuyên môn mà tôi không có khái niệm trong tiếng Việt, nên buộc phải diễn giải nó bằng nghĩa đen, hoặc bằng cách mà tôi hiểu nó. Có rất nhiều khái niệm tôi mới biết tức thì và sử dụng luôn trong bài này được lấy từ cuốn sách bên trên. Xin chân thành cám ơn tác giả và dịch giả.

Theo cuốn Kinh kịch Trung Quốc: "Người Trung Quốc gọi những hình vẽ có màu sắc sặc sỡ trên mặt nhân vật hí kịch là “kiểm phổ”. Kiểm phổ là một hình thức thể hiện độc đáo trong lĩnh vực biểu diễn của hí kịch Trung Quốc, kiểm phổ gồm hơn 1000 loại, những kiểm phổ khác nhau sẽ mang hàm nghĩa khác nhau. Màu sắc chủ đạo trong kiểm phổ gồm đỏ, tím, trắng, vàng, đen, xanh dương, xanh lá, hồng, xám, nâu, vàng, bạc, dùng những màu khác nhau để vẽ ra những kiểm phổ khác nhau thì nhân vật sẽ mang những tính cách khác nhau. Các đường họa tiết vẽ trên mặt thường được vẽ bằng các màu sắc khác nhau để làm tôn thêm màu chủ đạo, khi hóa trang, màu vẽ thường pha chung với dầu để hình vẽ được giữ lâu hơn. Màu sắc được dùng để vẽ kiểm phổ đầu tiên là ba màu đen, đỏ, trắng. Theo nghiên cứu của nhà lý luận hí kịch Trung Quốc Ung Ngẫu Hồng (1909-1994): cùng với sự gia tăng của các tuồng kịch, để khuếch trương và phân biệt giữa các nhân vật hí kịch với nhau, ba màu đen, đỏ, trắng chủ đạo ban đầu đã không còn đủ dùng nữa, các chuyên gia nghệ thuật hí kịch thông minh đã tiếp thu từ các phần miêu tả của tiểu thuyết cổ điển và phần thuyết minh của các nghệ nhân để phát triển kho tàng kiểm phổ, ví dụ như bằng thủ pháp khoa trương, thay hình đổi dạng của nghệ thuật, dùng các màu sắc và đường nét để vẽ lại các hình tượng như “mặt như táo đỏ”, “mặt đen như than”, “mặt như dầu trắng”, “mặt vàng như nghệ”, “mặt xanh râu đỏ”, “râu đỏ mặt xanh dương”, và “đầu báo mắt vòng”, “mắt phượng mày ngài”, “mũi sư tử”, “mày chổi” lên mặt của các nhân vật hí kịch." Các mô tả chỉ dừng lại ở mức này chứ không đi sâu chi tiết thêm nữa.

Theo Paul and Bernice Noll website: http://www.paulnoll.com/China/Opera/, mặt nạ Kinh kịch gồm 14 nhóm mặt khác nhau như sau:


1. Mặt trơn (Full Face) gồm: mặt trơn đỏ, trơn đen,trơn trắng
2. Mặt ba mảng (Three-Tile Face) gồm: dựng (Up-right), hoa (Flowered), nhọn (Pointed) và lão (Old)
3. Mặt chữ thập (Cross Face), gồm lão (Old), đốm (Variegated),
4. Mặt sáu phần mười (Six-Tenth Face), gồm mặt thường và mặt lão (Old)
5. Mặt hoa (Broken-Flower Face), gồm xanh, đen, đen bất đối xứng (asymmetric), trắng xoáy (Twisted)
6. Mặt thầy tu (Monk Face), gồm trắng, vàng
7. Mặt thầy pháp (Taoist Face), theo đạo Lão
8. Mặt hoạn quan (Eunuch Face)
9. Mặt hình thỏi bạc (Ingot Face), gồm thường (Ordinary), ngược (Inverted) và hoa (Flowered)
10. Mặt mang biểu tượng (Symbolic Face)
11. Mặt thần tiên (Fairy Face)
12. Mặt hề (Clown Face), gồm hề dân (Civilian), hề ác (Ugly) và hề lính già (Old warrior)
13. Mặt khoa trương (Heroic Face)
14. Mặt yêu quái (Demon Face)

Mô tả chi tiết như sau: 

Mặt trơn: Đây là kiểu mặt có cách vẽ gần giống mặt người tự nhiên nhất. Người ta phủ toàn bộ da mặt bằng màu chính yếu đại diện cho tính cách nhân vật, sau đó vẽ cách điệu thêm mắt, lông mày, mũi, miệng. Kỹ thuật vẽ mặt kiểu này dùng những nét vẽ nhỏ, mảnh, chính xác và dứt khoát.
Quan Vũ thuộc kiểu nhân vật uy dũng là đại diện điển hình cho kiểu mặt trơn màu đỏ.
Để vẽ mặt Quan Vũ, trước tiên người ta thoa toàn mặt màu đỏ, sau đó vẽ lông mày và mắt bằng những đường màu đen, những vạch dài trên trán và hõm mũi sậm màu mô tả một người phi thường do bởi vẻ uy nghi và tôn quý.
 
Tào Tháo thuộc kiểu nhân vật gian hùng là đại diện điển hình cho mặt trơn màu trắng
Tào Tháo là nhân vật đa nhân cách, một mặt có tính cách ám muội, dối trá, mưu mô mặt khác lại có tài thao lược trong quân sự và chính trị. Khuôn mặt Tào Tháo được phủ toàn bộ màu trắng thể hiện bản chất quỷ quyệt, mắt ti hý gãy góc với những nếp nhăn đằng chuôi cho thấy một tính cách xảo trá.
Bao Công thiết diện vô tư có mặt trơn màu đen với vầng trăng trên trán.

Khuôn mặt Bao Công được vẽ màu đen có cặp lông mày trắng đang nhíu lại để thể hiện tính cách trung quốc, hiếu dân và thượng tôn pháp luật. Vầng trăng trên trán thể hiện sức mạnh bí ẩn giúp Bao Công  giao tiếp với trần thế vào ban ngày và âm phủ vào ban đêm.

Như nói bên trên, ba màu chủ đạo đỏ, đen và trắng không đủ đáp ứng sự đa dạng của nhân vật nên các kiểu vẽ phong phú và đầy màu sắc hơn đươc phát triển. Kiểu mặt ba mảng là một trong các kiểu mặt phổ biến nhất cũng như có nhiều biến thể nhất.

Mặt ba mảng: Trong kiểu vẽ mặt này, các yếu tố mắt, lông mày và mũi được cường điệu lên bằng ba mảng màu, hai mảng màu gọi là hốc mắt (eye sockets) được vẽ xung quanh hai mắt và một hố mũi (nose pit) xung quanh mũi. Ba mảng màu này tựa như mấy viên ngói được xếp chồng lên nhau nên tiếng Anh mới có khái niệm là "three-tile" (ba viên ngói). Với kiểu mặt này, màu chủ đạo là màu nền phía dưới ba mảng màu bên trên.
Khương Duy là đại diện cho kiểu mặt ba mảng dựng
Kiểu mặt ba mảng dựng đại diện cho tính cách trung thành và can đảm. Lông mày được vẽ gần như thẳng đứng với mắt to và hõm mũi tròn. Mặt kiểu này thường có màu đỏ, trắng hay tía. Khương Duy mang mặt đỏ với biểu tượng lưỡng nghi rất đặc biệt trên trán, thể hiện việc ông là môn đồ của Gia Cát Lượng với khả năng "thông thiên văn, hiểu địa lý" như thầy.
Dou Er Dun đại diện cho kiểu mặt ba mảng hoa
Dou Er Dun là một trong những kiểu mặt đẹp và phức tạp trong Kinh kịch, khuôn mặt được chăm chút bằng những nét  và đốm tinh xảo xung quanh mắt và lông mày. Dou Er Dun là một thảo khấu nên mặt có màu xanh, giữa trán vẽ hình một cái lưỡi nhọn để biểu tượng cho cái xóc hai lưỡi là vũ khí đặc biệt của nhân vật này.
Wang Lin là ví dụ cho kiểu mặt ba mảng nhọn
Kiểu mặt ba mảng nhọn được phân biệt bởi lông mày cong hoặc nhọn với mắt thường được vẽ xếch lên. Kiểu mặt này có rất nhiều màu và nhân vật mang mặt này cũng rất đa dạng. Wang Lin là bạn của Lưu Ban, ông có công trong việc cứu gia đình Lưu Bang khỏi tay Xiang Xu, sau khi nhà Hán thành lập, ông trở thành thừa tướng của triều đại này.
Cheng Pu là ví dụ cho kiểu mặt ba mảng lão
Kiểu mặt ba mảng lão vẽ những nhân vật già với đặc điểm là mí mắt sệ xuống, các cơ mặt cũng được vẽ chùng lại như "đám mây thấp", hố mũi vẽ màu đen hay xám để chỉ tình trạng "hoa râm" của nhân vật. Cheng Pu là hình ảnh của một người đàn ông thông minh và đầy kinh nghiệm, người có khả năng giải quyết những tình huống khó khăn bằng trí lực.



Mặt chữ thập: Cách gọi này xuất phát từ chữ Trung Quốc: 十字门脸 (shízìmén liǎn). Mặt này được biến thể từ kiểu vẽ mặt ba mảng, màu chủ đạo của nhân vật là màu của đường kẻ dọc kéo từ trán xuống đầu mũi. Đường kẻ này kết hợp với đường ngang nối hai hốc mắt tạo thành một chữ thập giữa mặt. Những nhân vật kẻ mặt chữ thập đều là nhân vật chính diện như là anh hùng hay dũng tướng. Nếu vùng trắng xung quanh hai mắt được mở rộng một chút để trông giống như hai cánh chim, kết hợp với sống mũi vẽ đen sẽ cho khuôn mặt giống hình con chim ác (magpie), vì thế mặt kiểu này được gọi là mặt chim. Khi hốc mắt và mũi được vẽ dính liền nhau, khuôn mặt có hình dạng một con bướm xòe cánh, khi này mặt được gọi là mặt bướm. Nếu mặt bướm được trang trí thêm một vài họa tiết trên trán và xung quanh mắt thì khuôn mặt có tên là mặt bướm hoa (flowery butterfly face).


Hạng Vũ (Xiang Yu), kiểu mặt chim
Khuôn mặt của Hạng Vũ là độc đáo và duy nhất với mày rối và mắt chùng, mô tả hết sức sinh động hình ảnh bi tráng của một đấng anh hùng.
Trương Phi tính nóng như lửa lại có khuôn mặt bướm hoa
Trương Phi là một danh tướng rất được dân chúng yêu mến và ngưỡng mộ, ông có tính cách khẳng khái, bộc trực và rất nóng nảy, cùng võ nghệ siêu phàm kết hợp với sự dũng cảm và coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhưng ít ai biết được Trương Phi viết chữ rất đẹp và là một họa sĩ có biệt tài vẽ mỹ nhân.

Mặt Sáu phần mười: Mặt kiểu này là biến thể của mặt trơn, sỡ dĩ có tên này là do màu chính yếu chiếm tới 6 phần khuôn mặt, màu này được vẽ trên toàn bộ hai gò má và trên đường kẻ dọc ở giữa trán. Phần trán còn lại thường được vẽ màu trắng còn lông mày thì lại được giản lược bớt, có khi chỉ còn là hai đốm hình oval trên mặt.
Li Mi là người hiểu thời cuộc, dám khước từ công danh để lo cho mẹ già.
Mặt sáu phần mười có lối vẽ rất đơn giản, nhưng đây lại là kiểu mặt của giới quyền cao chức trọng như quân sư, quý tộc hay là vua.

"Những kiểm phổ mà khán giả thường thấy đa phần đều là của "Hoa kiểm", loại vai này được gọi là "Tịnh". Nhân vật vai này đều là nam, tính tình thô lỗ, phóng khoáng, thích nói chuyện lớn tiếng, thường xuyên la lớn, khi nôn nóng, căng thẳng còn động tay, động chân". Đây là mô tả về tính cách của mặt hoa trong cuốn Kinh kich Trung Quốc giới thiệu bên trên (trang 69).

Mặt hoa có hai dạng chính là mặt nét gãy (broken pattern) và biến dạng (deformed pattern). Mặt hoa nét gãy được biến thể từ mặt hoa ba mảng và mặt chữ thập bướm hoa, nghệ sỹ vẽ các đường cong trên trán, mắt, lông mày và cả trên hai gò má để tạo ra các hình dạng phong phú và đa dạng. Màu chính yếu được quy ước nằm trên trán, thông thường khuôn mặt kiểu này được vẽ bởi rất nhiều màu nhắm tạo những hiệu ứng ấn tượng cho khuôn mặt.
Ma Wu, mặt hoa màu xanh
Ma Wu mang mặt hoa màu xanh, nét bút được vẽ tỉ mỉ nhằm làm cho khuôn mặt thô ráp và hoang dã là hình ảnh điển hình của một thảo khấu chốn rừng xanh.

Xu Chu, mặt hoa nét gãy màu đen
Xu Chu là cận vệ của Tào Tháo, ông được mô tả là người cao lớn, mạnh mẽ nhưng đầu óc giản đơn và trung thực nên có biệt danh là "cọp khờ" (Tiger Pool). Mặt Xu Chu mang màu đen, những nét vẽ cong, đứt đoạn cùng những đốm chấm dưới mắt và mày làm khuôn mặt trông rất dữ.

Kiểu mặt hoa biến dạng, giống như tên gọi, mô tả một khuôn mặt bị biến dạng trong một trạng thái cảm xúc không bình thường. Thường khuôn mặt này là mặt của ti phạm hay là mô tả một hành vi phạm tội.

Zheng Ziming, mặt hoa màu đen biến dạng
Mặt Zhen Ziming bị biến dạng do một con thú vồ khi ông này đang cố cứu một người khác lúc còn tuổi trẻ, khuôn mặt có một vết sẹo trên trán và có cả dấu của vết cào ở một bên má.

Năm loại mặt bên trên mô tả thế giới của những người bình thường, tuy nhiên Kinh kịch còn cả một thế giới khác thường nữa, đó là thế giới của đạo sĩ, của thần tiên, của quái vật. Khuôn mặt của những nhân vật kiểu này được mô tả bằng những biểu tượng có tính ám chỉ rất đặc biệt, thường hốc mắt được vẽ hình bầu dục, quanh mũi và miệng là những họa tiết hình hoa, trên trán bao giờ cũng có những dấu hiệu như, lưỡng nghi biểu trưng cho đạo Lão hay ngọc tỉ, chín dấu chấm biểu trưng cho Phật giáo.
Lu Shishen, thầy tu mặt trắng
Pan Tong, tu sĩ đạo lão
Hoang Pang, tu sĩ Phật giáo
Bên cạnh tu sĩ còn có hoạn quan cũng thuộc loại người không bình thường, hoạn quan trong Kinh kịch chỉ có hai màu mặt là đỏ và trắng. Tính cách thường không tốt đẹp, không chuyên quyền thì cũng thích hành hạ và cai trị người ta. Lông mày được vẽ mỏng và xếch ngược, hốc mắt vẽ bầu bầu tựa con dao phay ám chỉ sự chết chóc, khóe miệng thì trễ xuống cộng với những nếp nhăn được kéo thõng cho thấy tính cách trí trá của hạng người này. Điều tức cười nhưng chính là dụng ý của nghệ thuật vẽ mặt, hoạn quan bao giờ cũng có hình ngọc tỉ trên trán, cho thấy họ là đệ tử Phật nhưng mỉa mai thay rằng "miệng nam mô nhưng bụng ngậm bồ dao găm"
Yi Li, hoạn quan mặt trắng
Liu Jin, hoạn quan mặt đỏ
Mặt mang biểu tượng: là một phần rất đặc sắc của Kinh kịch, khuôn mặt này thể hiện nhân vật thần thoại thường xuất hiện trong những vở kịch chuyển thể từ truyện cổ tích. Không có tiêu chuẩn chung nào để vẽ loại mặt này, tuy nhiên người  nghệ sỹ phải hóa trang sao cho khuôn mặt gồm  màu sắc và đường nét phải đại diện cho con quái vật hay vị thần mà mình muốn mô tả.

Kẻ ranh mãnh vĩ đại, mặt vua khỉ
Đây là mặt Tôn Ngộ Không trong vở "Đại náo thiên cung", diễn viên đóng vai này phải hóa trang cho thật giống con khỉ huyền thoại rất nổi tiếng này.
Mặt mang biểu tượng của Báo đồng tiền
 Đây là mặt của con quỷ đội lốt báo trong vở kịch "Núi Hồng đào", con qủy này chiếm núi Hồng đào và cướp vợ của điền chủ, cuối cùng nó bị bắt bởi thiên binh.

Mặt thần tiên: Đây là biến thể của loại mặt trơn và mặt ba mảng, thường là mặt Phật hay Thánh. Màu nhũ vàng và bạc, biểu tượng cho sự thiêng liêng và tôn kính là hai màu chủ đạo của kiểu mặt này.

Li Tian Wang, Lý Thiên Vương
Mặt Lý Thiên Vương là kiểu mặt ba mảng nhọn với hình thanh long đao màu nhũ vàng trên trán, trong vở "Đại náo thiên cung" Ngọc Hoàng đã phái Lý Thiên Vương xuống bắt Tôn Ngộ Không để dẹp loạn.

Mặt khoa trương và mặt yêu quái: Về cơ bản, hai loại mặt này gần giống như mặt mang biểu tượng, chúng thường là những vai phụ nên cách vẽ cũng khá đơn giản nhằm đễ dễ phân biệt với các vai chính trong một vở kịch.

Hei Fengli, mặt khoa trương đen
Lính rùa, mặt yêu


" Xét trên chức năng hí kịch của kiểm phổ, dù nhân vật thuộc thể loại vai nào đều có thể vẽ kiểm phổ, khi cần thiết phải làm nổi bật hình tượng và diện mạo của nhân vật. Thường thì hai dạng nhân vật Tịnh (vai tà) và Sửu (vai hề) có nhiều kiểm phổ nhất. Thông thường, đối với những khán giả thích kiểm phổ thì đại đa số đều tập trung quan sát vai Tịnh, nhưng vai Sửu trong Kinh kịch mới là dạng vai đầu tiên được vẽ kiểm phổ trong lịch sử Kinh kịch... Kiểm phổ của các nhân vật khác nhau cũng có sự khác biệt rõ nét. Nhưng so ra thì kiểm phổ của vai Sửu lại đơn giản hơn vai Tịnh, nhưng các nhân vật hàng Sửu lại đa dạng và phức tạp hơn nhiều, hiệu quả nghệ thuật diễn xuất cũng khá nổi bật so với vai Tịnh. Vì vậy kiểm phổ của vai Sửu vừa tinh tế và có chiều sâu hơn, không phải đơn thuần chỉ vẽ mấy “mảng đậu phụ” (mảng màu trắng to bằng một miếng đậu phụ được vẽ ở giữa mặt) mà thôi, và cho dù chỉ là vẽ “mảng đậu phụ” như nhau, nhưng vị trí vẽ và kích thước to nhỏ cũng sẽ mỗi người mỗi khác, và cũng tùy theo từng vở kịch"

Trên đây là một đoạn trích trong lời giới thiệu của sách đã dẫn. Rõ ràng hệ thống vai hề chiếm vị trí rất quan trọng trong loại hình kịch nghệ này. Người ta dùng thủ pháp biếm họa để thể hiện khuôn mặt hề, một bệt trắng như miếng đậu phụ được vẽ chính giữa mặt, trùm lên toàn bộ chóp mũi, có thể có nhiều hình dạng khác nhau như tròn, tam giác, đa giác, đây là đặc điểm chính yếu để nhận diện mặt hề.

Jiang Gan, hề dân
Jiang Gan trong vở "Quần anh hội" là một ví dụ điển hình của mặt hề. Khuôn mặt được vẻ nhằm cho thấy một người có bề ngoài thông minh nhưng thực chất lại rất ngốc nghếch.
Xue Ba, hề ác
Xue Ba là một trong hai tên cướp được phái đi giết Lâm Xung trong vở "Dã trư lâm" dựa trên cốt truyện Thủy Hử.
Tao Hong, hề lão
"Trong vai Sửu, có một số đóng vai nham hiểm, gian xảo, tham lam, ích kỷ, nhưng nhiều hơn hết là các vai thông minh, lanh lợi, cảnh giác, hài hước, thậm chí còn rất ngay thẳng, chính trực, hiền lành. Trong hí kịch tryền thống, thông thường những nhân vật có địa vị không cao đều do vai Sửu đóng. Nhưng xét về tính cách, những người này đa phần đều rất hài hước, hoạt bát, khá lạc quan. Phải nói rằng nhân vật thuộc hàng Sửu nhiều hơn các vai Sinh, vai Đán và vai Tịnh, từ hoàng thượng, tướng quân, thừa tướng, cho đến tầng lớp bình dân, những người què, điếc, mù, câm, nam, nữ, già, trẻ, người tốt, người xấu, trung thần, kẻ gian đều có thể dùng vai sửu để thể hiện" (sđd, trang 70). Quả đúng "Vô Sửu bất thành hí"!

"Đán" là tên gọi để chỉ vai nữ ngược với "Sinh" để chỉ vai nam. Có lẽ vở "Bá Vương biệt cơ" sau này được dựng thành phim là một "show diễn" thành công trong việc giới thiệu Kinh kịch ra với thế giới. "Bá Vương biệt cơ" là vở kịch của vai Đán, vở kịch kể về mối tình thiên cổ của kiêu hùng Sở Bá Vương Hạng Vũ với tuyệt đại mỹ nhân Ngu Cơ đã cùng chết đẹp trong ngày tàn binh bại.
Poster phim Bá Vương Biệt Cơ của đạo diễn Trần Khải Ca
Khi vẽ mặt vai nữ, cách đánh phấn, thoa son, vẽ chân mày, vẽ đường viền mắt, hình môi là những điểm cần chú ý nhưng cách dán hoa mới là điểm nổi trội. "Cách dán hoa của vai Đán tức là vẽ tóc mai ở hai bên má của diễn viên vai Đán và dán hoa ngay trên phần tóc trên trán, ưu điểm là có thể thay đổi khuôn mặt một cách tự nhiên, giúp cho khuôn mặt mang vẻ đẹp của thời đại đó, và cũng phù hợp với yêu cầu của vở kịch" (sđd trang 139).
Mu Gui Ying, nữ tướng
Mộc Quế Anh (穆桂英- Mu Gui Ying) là một nhân vật hư cấu trong các giai thoại về Dương Gia Tướng. Theo đó, bà được mô tả là một nữ tướng dũng cảm, kiên quyết và trung thành, được xem là hình tượng của một người phụ nữ kiên định trong văn hóa Trung Quốc.

Lịch sử Kinh kịch chỉ chừng hơn 200 năm nhưng Kinh kịch đã tích lũy được những chuẩn mực có tính công thức cho hệ thống trình diễn như phục sức, hình thức biểu diễn (ca, nói, vũ đạo) và đặc biệt là chuẩn mực kiểm phổ. "Qua nhiều năm phát triển, phương pháp vẽ kiểm phổ, kiểm phổ tiêu biểu cho cái gì, đặc điểm và quy trình vẽ đều có quy ước riêng, những khán giả quen thuộc chỉ cần nhìn mặt là biết ngay nhân vật nào trong vở kịch nào. Từ đó cũng thấy được quan điểm và xu hướng tình cảm đặc thù của người Trung Quốc đối với các nhân vật lịch sử... Kiểm phổ chính là bằng chứng phát triển hoàn thiện của thủ pháp tả ý ước lệ trong Kinh kịch, hiểu rõ ý nghĩa tượng trưng mà kiểm phổ muốn thể hiện sẽ giúp ích cho việc tìm hiểu cốt truyện của tuồng kịch. Sau khi kiểm phổ đã có chỗ đứng vững chắc trong nghệ thuật biểu diễn hí kịch, mặt nạ vẫn chưa bị phế bỏ, ví dụ như khi diễn các vở kịch về đề tài cát tường và thần thoại vẫn còn “mặt nạ thần tài”, “mặt nạ thần sấm”..., vẫn còn tình trạng mặt nạ và kiểm phổ cùng xuất hiện trên sân khấu" (sđd, trang 13). 

Trên đây là một chút sơ lược về nghệ thật vẽ mặt Kinh kịch, sẽ là "múa rìu qua mắt thợ" khi một kẻ amateur như tôi cố gắng đào sâu hơn vào chủ đề này. Xin dành chút thời gian để ngó qua một vài cái "kiểm phổ" nữa trong sưu tập của tôi, tuy là hàng chợ nhưng ít nhiều nó cũng có chút hồn Kinh kịch.

Zhongli Chun

Wang Lin
Wang Yangzhang
Meng Yuehai
Tu Xing Sun
Dian Wei
Và mấy cái mặt vẽ rất công phu nhưng không biết tên:
Không tên 1
Không tên 2

Không tên 3

Không tên 4
Tham khảo:

1. Những hình ảnh dùng minh họa nhưng không thuộc sưu tập của tôi và hầu hết nội dung được lấy từ trang web của giáo su Paul Noll và phu nhân Bernice Noll: http://www.paulnoll.com/China/Opera/. Có lẽ đây là trang web tiếng Anh tốt nhất nói về mặt nạ Kinh kịch, xin cám ơn các tác giả đã cung cấp một nguồn thông tin rất hữu ích cho những ai quan tâm tới Kinh kịch trong đó có tôi.

2. Một trang web khác của Trung Quốc: http://www.cultural-china.com/chinaWH/Arts/en/87Arts6676.html cũng cung cấp rất nhiều thông tin về mặt nạ Kinh kịch dưới cách nhìn của người Trung Hoa.